Tiết kiệm năng lượng:

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

07:00 | 28/08/2014

1,019 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
Mặc dù đã được luật hóa thành văn bản pháp lý nhưng theo nhận định của giới chuyên gia, tiết kiệm năng lượng (TKNL) dù đã được xem là quốc sách nhưng hiệu quả chưa cao. Phần lớn các kết quả có được là do sự nỗ lực, cố gắng tự thân của 3 trụ cột ngành năng lượng là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV).

Ðể làm sáng tỏ hơn vấn đề này, Báo Năng lượng Mới xin lược ghi một số ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý đưa ra tại hội thảo khoa học với chủ đề “Tiết kiệm năng lượng - những vấn đề cấp bách”.

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi: Việt Nam tiêu hao năng lượng nhiều nhất thế giới

Quá trình đổi mới đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của ngành năng lượng Việt Nam, đã đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn đổi mới, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Cụ thể: Ðiện đã đưa về 98% số xã, với trên 96% hộ dân cả nước, sản lượng điện phát ra hằng năm là trên 100 tỉ kWh, đưa sản lượng từ 300-400 lên 1.500kWh/người/năm. Với ngành than, chúng ta đã đạt sản lượng 40 triệu tấn/năm, đáp ứng đủ nhu cầu cho ngành điện và các ngành kinh tế khác. Ðặc biệt, ngành Dầu khí đã đạt 25 tấn dầu quy đổi (dầu là 16 triệu tấn/năm, khí là 9 tỉ m3/năm), cung cấp khoảng 30% lượng xăng dầu cho nền kinh tế, hằng năm đóng góp 25-30% vào thu ngân sách Nhà nước.

Năng lượng và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả được Việt Nam xem là quốc sách. Và điều này đã được cụ thể hóa bằng rất nhiều các văn bản pháp lý quan trọng như Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050; Luật Khoáng sản các năm 1996, 2005 và 2010; Luật Ðiện lực; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2006-2015...

Tuy nhiên, mức độ tiêu hao năng lượng của cả nước vẫn còn rất lớn, nếu tính bình quân trên 1 đơn vị sản phẩm thì cao hơn gấp 5-6 lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ðiều này không chỉ làm giảm hiệu quả kinh tế mà còn tạo lên áp lực phát triển rất lớn đối với ngành năng lượng. Chính vì vậy, TKNL đã và đang trở thành vấn đề cấp bách không chỉ với một ngành, một lĩnh vực mà là của cả nền kinh tế, cả xã hội.

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi

Nguyên nhân của hiện trạng này là do tình trạng khai thác các nguồn năng lượng của ta hiện nay còn manh mún, thiếu quy hoạch tổng thể, trong đó có chính sách sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng. Các quy hoạch phân ngành điện, than, dầu - khí, năng lượng mới - năng lượng tái tạo được xây dựng riêng rẽ (khi chưa có chiến lược phát triển năng lượng quốc gia). Bên cạnh đó, giá của các loại nhiên liệu - năng lượng là đầu vào và đầu ra của nhau nhưng tính cân đối và sự tương quan chưa hợp lý. Ví như giá than nội địa tính cho các dự án nhà máy nhiệt điện trong quy hoạch điện không phản ánh thực sự đầy đủ thành phần chi phí nhiên liệu trong giá thành điện...

Ðể giải quyết những vấn đề trên, ngành năng lượng Việt Nam cần có quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, gồm các phân ngành điện, than, dầu khí và năng lượng tái tạo; Cần tạo điều kiện hỗ trợ vốn cho ngành than để xây dựng thêm nhiều mỏ mới ở khu vực Quảng Ninh và Ðông Bắc, tăng sản lượng than hằng năm để phát triển kinh tế trong yêu cầu mới; Cần phải thực hiện Quyết định số 41 của Bộ Chính trị về phát triển ngành Dầu khí đến năm 2025, đảm bảo đạt 40 triệu tấn dầu quy đổi. Và để thực hiện được mục tiêu này cần có các giải pháp về công nghệ, vốn, thiết bị để thăm dò khai thác dầu khí ở các vùng nước sâu. Ðẩy mạnh công tác lọc hóa dầu tạo thành chuỗi sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong lĩnh vực này; Cần sớm hiệu chỉnh Tổng sơ đồ điện VII một cách hợp lý nhất, sát với thực tế theo tốc độ phát triển của nền kinh tế và cần quan tâm đến môi trường; Chính phủ cần có quy hoạch chiến lược phát triển năng lượng gió, vì tiềm năng gió Việt Nam rất lớn, có thể sản xuất được nhiều ngàn MW điện thay thế cho năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt, cải thiện ô nhiễm môi trường; Cần tái lập Bộ Năng lượng giúp Chính phủ quản lý chỉ đạo ngành năng lượng, trong đó có việc chỉ đạo mục tiêu quốc gia, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả...

Phó tổng giám đốc EVN Nguyễn Tấn Lộc: Cần xem xét lại cơ chế giá điện

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả gắn liền với mục tiêu an ninh năng lượng và phát triển bền vững đã được Ðảng và Nhà nước ta xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. EVN là tập đoàn kinh tế Nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng điện năng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Cùng với nhiệm vụ nỗ lực đảm bảo cung cấp đủ điện cho nền kinh tế và sinh hoạt của nhân dân, EVN luôn ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đối với xã hội và đang đi đầu trong thực hiện các giải pháp và tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Cụ thể: EVN đã phê duyệt chương trình tiết kiệm điện giai đoạn 2013-2015 với những chỉ tiêu hết sức cụ thể. Ðồng thời, trong quá trình triển khai, công tác chỉ đạo điều hành, kiểm tra, giám sát cũng được EVN chỉ đạo và quán triệt từ cấp Tập đoàn xuống các đơn vị cơ sở. EVN và các đơn vị cơ sở đã thành lập ban chỉ đạo tiết kiệm điện để đôn đốc, chỉ đạo và giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình tiết kiệm điện.

Ðặc biệt, về tổn thất điện năng, EVN đã chủ động đề ra và thực hiện tốt các mục tiêu tiết kiệm điện, đảm bảo năm sau kết quả tốt hơn năm trước. Mức tiêu hao nhiên liệu và tỷ lệ điện dùng cho sản xuất điện (điện tự dùng) luôn thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Tỷ lệ điện dùng để truyền tải và phân phối điện (tổn thất điện năng) liên tục thực hiện thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao và đã có mức giảm đáng kể từ 9,23% (năm 2011) xuống còn 8,87% (năm 2013). Ngoài ra, trong những năm qua, EVN cũng đã triển khai nhiều hoạt động, chương trình tiết kiệm điện như “Chương trình thay đèn sợi đốt bằng đèn compact”, “Chương trình quảng bá bình đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời”... Kết quả, bình quân từ năm 2011-2013, cả nước tiết kiệm được khoảng 1,9 tỉ kWh điện/năm, giá trị tiết kiệm bình quân là 2.757 tỉ đồng/năm.

Tuy nhiên, việc triển khai các chương trình TKNL của EVN cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là vấn đề nhận thức của một bộ phận người dân và doanh nghiệp về chủ trương sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả còn hạn chế. Vẫn còn hiện tượng lãng phí trong sử dụng năng lượng nói chung và sử dụng điện nói riêng, trong đó có khối cơ quan hành chính sự nghiệp. Công tác quản lý thị trường hàng hóa, thiết bị có hiệu suất cao, TKNL còn hạn chế. Giá điện thì vẫn còn ở mức thấp, chưa tiệm cận với giá thị trường nên đã không khuyến khích được người dùng tiết kiệm...

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

Phó tổng giám đốc EVN Nguyễn Tấn Lộc

Ðể khắc phục những vấn đề như trên, EVN kiến nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tăng cường tiết kiệm điện trong sản xuất, tiêu dùng và thực hiện Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Phát động các chương trình tuyên truyền về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nói chung và tiết kiệm điện nói riêng trên các kênh thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo chí; Chính phủ chỉ đạo các ngân hàng thương mại trong nước nghiên cứu cơ chế vay vốn linh hoạt, thủ tục đơn giản, dễ dàng cho các doanh nghiệp trong nước muốn đầu tư, sử dụng các dây chuyền sản xuất, thiết bị máy móc có hiệu suất cao và TKNL; Xem xét hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong nước chuyển đổi sử dụng các thiết bị có hiệu suất cao theo hướng hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiện sản xuất trong nước để giảm giá thành sản phẩm (ví dụ: các thiết bị điện như: motor, điều hòa, chiếu sáng, bình đun nước nóng năng lượng mặt trời…); Xem xét cơ chế giá điện hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển các dạng năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, vốn có nhiều tiềm năng ở Việt Nam. Áp dụng giá điện cao hơn đối với các doanh nghiệp chưa thực hiện tốt các chính sách, quy định về TKNL…

Phó tổng giám đốc PVN Nguyễn Quốc Khánh: Cần ưu đãi về thuế cho hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí và lọc hóa dầu

Năng lượng là một trong các ngành quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân và là động lực của quá trình phát triển đất nước. Nghị quyết Ðại hội IX của Ðảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”. Ở nước ta, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ năng lượng đang gia tăng mạnh mẽ, kèm theo đó là thách thức to lớn về nguy cơ hủy hoại môi trường, nguồn tài nguyên năng lượng truyền thống ngày càng cạn kiệt thì vấn đề “TKNL” có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp bách.

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

Phó tổng giám đốc PVN Nguyễn Quốc Khánh

Nhận thức được tầm quan trọng trong phát triển năng lượng cũng như TKNL nêu trên, trong những năm qua, PVN với vai trò là đầu tàu kinh tế của cả nước và là một trong những trụ cột của ngành năng lượng Việt Nam đã tích cực triển khai mạnh mẽ chiến lược phát triển hạ tầng năng lượng của ngành Dầu khí. Ðồng thời chủ trương thực hiện các biện pháp TKNL trong các hoạt động dầu khí, nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng cao cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đảm bảo sử dụng hiệu quả tiết kiệm nguồn năng lượng quốc gia. Cụ thể:

Về lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí: Ðẩy mạnh đầu tư tìm kiếm, thăm dò và khai thác trong nước, trong đó dành tỷ lệ tham gia cao nhất có thể tại các bể truyền thống Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Sông Hồng; Tiếp tục quảng bá, ưu tiên kêu gọi các đối tác tiềm năng có quan tâm đầu tư vào tìm kiếm thăm dò tại những vùng nước sâu, xa bờ; song song với việc chủ động tự thực hiện điều tra cơ bản và tiến hành tìm kiếm, thăm dò; Ðầu tư phương tiện thiết bị phục vụ công tác tìm kiếm, thăm dò và sớm đưa các phát hiện dầu khí và khai thác một cách hợp lý, hiệu quả, đặc biệt khu vực nước sâu, xa bờ, nhạy cảm chính trị; Ðảm bảo hầu hết lượng khí khai thác được từ các mỏ đều được thu gom xử lý và đưa về bờ, không đốt bỏ gây lãng phí và làm ô nhiêm môi trường hoặc tiến hành bơm ép xuống mỏ nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu và khai thác tận thu các mỏ ở giai đoạn cuối; Tích cực tận thăm dò, tăng cường và nâng cao hệ số thu hồi, sớm có chính sách về giá khí để thu hút đầu tư và thúc đẩy các dự án thăm dò, khai thác khí; Nghiên cứu, điều tra cơ bản, nghiên cứu phát triển các dạng hydrocarbon phi truyền thống (khí than, khí hydrate, khí đá phiến sét - shale gas); Bên cạnh đó, tích cực tìm kiếm đối tác chiến lược, đầu tư thích hợp để mở rộng hoạt động dầu khí ra nước ngoài, kết hợp giữa mua tài sản và hợp đồng tìm kiếm, thăm dò nhằm tập trung đầu tư 2-3 “khu vực trọng điểm” trong vòng 7-10 năm tới.

Về lĩnh vực khí: Tiến hành kết nối, bổ sung và tiếp tục phát triển các hệ thống đường ống thu gom khí tự nhiên, đồng hành từ các mỏ thuộc bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, PM3 - CAA; triển khai xây dựng đồng bộ hệ thống đường ống thu gom khí, Nam Côn Sơn 2 giai đoạn 1 và từ các mỏ thuộc khu vực Bắc Bộ về khu vực Thái Bình; triển khai xây dựng đồng bộ hệ thống đường ống dẫn khí từ mỏ Cá Voi Xanh (Lô 118) về bờ, từng bước hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng cung cấp khí cho khu vực miền Trung, có tính đến khả năng kết nối với hệ thống cung cấp khí khu vực miền Nam; Tiếp tục đầu tư nâng cấp, mở rộng nhà máy xử lý khí hiện có tại Dinh Cố, tích cực triển khai các dự án đầu tư nhà máy xử lý khí cùng thời gian với việc xây dựng và mở rộng các hệ thống đường ống dẫn khí; Tiếp tục nghiên cứu cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ vay vốn, giá bán khí… để triển khai các dự án thu gom khí đồng hành mỏ nhỏ, cận biên.

Về lĩnh vực lọc hóa dầu: Ðầu tư duy trì công suất lọc dầu và công suất sản xuất nhiên liệu sinh học để tổng công suất đáp ứng khoảng 80% nhu cầu sản phẩm xăng dầu trong nước; Nâng cấp Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, xây dựng các Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn, Long Sơn. Công suất lọc dầu đạt 16-20 triệu tấn/năm vào năm 2020 và 30 triệu tấn/năm vào năm 2030...

Và để thực hiện tốt các mục tiêu trên, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương sớm ban hành cơ chế kinh doanh và chính sách giá khí bởi kinh nghiệm triển khai các dự án khí trong thời gian qua cho thấy, việc thống nhất giá khí thường mất nhiều thời gian, kéo dài và là nhân tố then chốt. Với việc nguồn cung khí từ các mỏ hiện có đang dần bị suy giảm, sự chênh lệch về giá khí đầu vào từ các nguồn khí khác nhau ngày một mở rộng. Chính vì vậy, để có thể đảm bảo nguồn cung cấp khí phục vụ cho nhu cầu năng lượng của quốc gia, trong những năm tới, Chính phủ cần thiết phải có những chính sách nhằm đột phá, giải tỏa các vướng mắc trên, đảm bảo lợi nhuận khuyến khích các nhà thầu đầu tư vào các dự án khí thượng nguồn, trung nguồn, hỗ trợ PVN như là một bên trong quá trình triển khai các dự án khí, nhập khẩu khí LNG.

Kiến nghị Chính phủ xem xét, giao cho PVN chủ trì thẩm định các báo cáo đánh giá trữ lượng, kế hoạch phát triển mỏ (FDP) với sự tham gia của các bộ, ngành có liên quan và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Chủ trì thẩm định các báo cáo kế hoạch khai thác sớm (EDP), Kế hoạch thu dọn mỏ với sự tham gia của các bộ, ngành có liên quan và báo cáo Bộ Công Thương phê duyệt; Phê duyệt thay đổi dự toán ở mức dưới 20% so với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt trong FDP/EDP.

Tập đoàn cũng kiến nghị Chính phủ xem xét, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại những vùng nước sâu, xa bờ, thăm dò - khai thác khí thiên nhiên; Ưu đãi thuế cho các nhà máy lọc, hóa dầu nằm trong quy hoạch, nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh với sản phẩm lọc, hóa dầu nhập khẩu.

Ngoài ra, để ngành năng lượng từng bước phát triển theo hướng thị trường cạnh tranh, PVN kiến nghị Chính phủ xem xét, cân nhắc lộ trình điều chỉnh giá điện từng bước tiếp cận với giá thị trường.

Phó trưởng ban Khoa học Công nghệ TKV Kiều Kim Trúc: Ðổi mới công nghệ, thiết bị khai thác mỏ

Việt Nam nằm trong top những nước tiêu thụ năng lượng tương đối lớn so với khu vực và trên thế giới. Dự báo nhu cầu điện của Quy hoạch điện VII, tăng trưởng nhu cầu năng lượng của Việt Nam là 8,1-8,7% giai đoạn (2001-2020), trong đó năm 2010 trên 100 tỉ kWh, năm 2020 là 330-362 tỉ kWh, năm 2030 là 695-834 tỉ kWh. Nhu cầu điện ngày càng lớn, khả năng cân đối tài chính để khai thác và chế biến 55-58 triệu tấn than sau năm 2015 là rất khó khăn. Nhu cầu than riêng cho ngành điện vào năm 2020 với công suất các nhà máy điện than là 36 nghìn MW để sản xuất 154,44 tỉ kWh, sẽ tiêu thụ 67,3 triệu tấn than. Năm 2030, công suất các nhà máy nhiệt điện than là 75.748,8MW để sản xuất 391,980 tỉ kWh, tiêu thụ tới 171 triệu tấn than.

Điện, than và dầu khí vẫn là tiên phong

Phó trưởng ban Khoa học Công nghệ TKV Kiều Kim Trúc

Thực tế hiện nay, toàn bộ sản lượng than khai thác bằng 2 phương pháp là lộ thiên và hầm lò, bao gồm 24 mỏ lộ thiên và 49 mỏ hầm lò, được phân bổ chủ yếu tại tỉnh Quảng Ninh, phía bắc Việt Nam, với tỷ lệ 50/50 và tỷ lệ khai thác than hầm lò tăng lên từ năm 2014 đến 2020 sẽ chiếm tỷ lệ hơn 70% tổng sản lượng than. Và để đáp ứng nhu cầu than cho ngành điện, các mỏ hiện đang được đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và các kỹ thuật khai thác mỏ, đặc biệt là cơ giới hóa khai thác hầm lò góp phần tăng sản lượng và tiết kiệm chi phí. Ðồng thời, TKV cũng đang nghiên cứu công nghệ khí hóa than ngầm, là một quy trình công nghệ nhằm chuyển đổi than từ dạng rắn thành dạng khí và cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Với công nghệ tiên tiến này, TKV có cơ hội mở rộng công tác thăm dò và khai thác trữ lượng than nằm từ độ sâu 300m xuống tới 1.200m so với mặt nước biển tại bể than Quảng Ninh và tại bể than Ðồng bằng Sông Hồng với sự hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài.

Ðể có thể khai thác tận thu triệt để tài nguyên, TKV đang triển khai các đề tài nghiên cứu, dự án khoa học công nghệ để nghiên cứu các giải pháp khai thác than dưới khu vực cần phải bảo vệ các công trình trên bề mặt (thành phố, khu dân cư, hồ nước, khu bảo tồn…) bằng các phương pháp chèn lò, tính toán để lại các trụ bảo vệ hợp lý…

Thanh Ngọc

DMCA.com Protection Status