Nhà máy Lọc dầu Dung Quất: Cần sớm được nâng cấp mở rộng

08:15 | 03/03/2014

853 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
Nhân kỷ niệm 5 năm ngày đón dòng sản phẩm thương mại đầu tiên của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (NMLD Dung Quất), ngày 24/2 tại Quảng Ngãi, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) phối hợp với Hội Dầu khí Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học “Nhà máy Lọc dầu Dung Quất - hướng tới sự phát triển bền vững”. Báo Năng lượng Mới ghi lại những thông tin cơ bản nhất được đưa ra tại hội thảo và ý kiến của các chuyên gia khác xung quanh mục tiêu lớn này.

Năng lượng Mới số 300

TSKH Hồ Sỹ Thoảng, nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Dầu khí Việt Nam:

NMLD Dung Quất đang đứng trước nhiều thách thức, trong đó phải thấy rằng bản chất của lọc hóa dầu có lợi nhuận thấp, đặc biệt ở các nước có công nghệ phụ thuộc như Việt Nam và một số nước Đông Nam Á. Hiện tại, nước ta đang vận hành 1 NMLD nhưng đã đóng góp 30% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Tương lai gần khi những dự án lớn như Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Nhơn Hội, Vũng Rô, Long Sơn đi vào hoạt động thì sẽ dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt tại thị trường trong nước. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế, NMLD Dung Quất phải đứng trước thách thức nguồn cung dầu thô từ các nước Trung Đông hoặc nếu có xuất bán xăng thì cũng bị một số nước có công nghiệp lọc hóa dầu mạnh như Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản cạnh tranh.

Về thách thức nội tại NMLD Dung Quất có thể thấy rằng, công nghệ phụ trợ trong nước còn yếu nên khi thay thế hoặc bảo dưỡng phải phụ thuộc vào nhà thầu nước ngoài. Các sản phẩm dầu thô, xúc tác, hóa phẩm, phụ tùng, dịch vụ phải mua bằng USD trong khi sản phẩm bán trong nước bằng VNĐ. Thách thức trong nguyên liệu, NMLD Dung Quất thiết kế chỉ có thể chế biến dầu có hàm lượng lưu huỳnh rất thấp (<0,06%kl) và tỷ lệ phân đoạn cặn chưng cất khí quyển cao (~50%). Trong khi sản lượng khai thác dầu thô cơ sở (dầu ngọt Bạch Hổ) ngày càng giảm. Các loại dầu thô trong nước khác có sản lượng thấp và chỉ thay thế được một phần do tính chất không tương đồng.

Từ những thách thức trên, Hội Dầu khí Việt Nam đưa ra những giải pháp về con người, quản lý, khoa học công nghệ, nguồn nguyên liệu và sản phẩm.

Tổng giám đốc BSR Đinh Văn Ngọc kiểm tra thông số kỹ thuật ở Phòng Điều khiển trung tâm

Hội đề nghị BSR chủ động và PVN hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý và vận hành nhà máy, đặc biệt đối với các xưởng công nghệ sử dụng bản quyền công nghệ nước ngoài. BSR chủ động kết hợp lực lượng bảo dưỡng nội tại và các nhà thầu chuyên nghiệp đảm bảo được độ tin cậy của thiết bị để có thể vận hành an toàn, ổn định. BSR phát huy tối đa nội lực và hợp tác có hiệu quả với Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) và Các tổ chức Nghiên cứu và Phát triển (R&D) trong và ngoài nước, làm chủ công nghệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật nâng cao hiệu suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất và đa dạng hóa sản phẩm, chế biến phụ phẩm sản xuất ethanol thành chế phẩm sinh học…

Hội đề nghị các cấp cho BSR được mua dầu thô khai thác ở trong nước với giá cạnh trạnh và thanh toán bằng VNĐ từ nguồn doanh thu bán sản phẩm của mình. Chính phủ có cơ chế cân đối ngoại tệ cho BSR để mua dầu thô, mua sắm thiết bị, xúc tác, hóa phẩm, phụ tùng và các dịch vụ nước ngoài từ nguồn tiền bán sản phẩm của mình với tỉ giá phù hợp. Giải pháp về sản phẩm: Chính phủ quyết tâm trong việc áp dụng lộ trình bắt buộc sản xuất và sử dụng E5/E10 đã ban hành (12/2015 và 12/2017), tạo chênh lệch về thuế môi trường giữa xăng gốc khoáng và E5/E10.

Một số giải pháp khác như cho hưởng cam kết thuế nhập khẩu tương tự Lọc hóa dầu Nghi Sơn (tối thiểu 7:5:3); Cho nhà đầu tư nước ngoài được phân phối tại Việt Nam theo tỷ lệ góp vốn vào NMLD hiện tại hoặc sau khi nâng cấp, mở rộng.

Về giải pháp nguyên liệu, Hội cho rằng cần tăng sức chứa của kho dầu thô để giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu; Tăng công suất dây chuyền tách muối và nước, bổ sung các thiết bị xử lý và thu hồi lưu huỳnh để có thể chế biến dầu chua và nhiều tạp chất hơn; Tăng công suất 15-20% để tận dụng đầu tư hạ tầng và thiết bị sẵn có (giảm chi phí sản xuất cố định, khấu hao và một số chi phí khác - ước tính tăng công suất lên 15% giảm chi phí sản xuất khoảng 1,1USD/thùng dầu thô tương đương khoảng 50 triệu USD/năm). Nhà máy cần nâng cấp để bổ sung các sản phẩm mới (dầu nhờn, nhựa đường). Cuối cùng, nhà máy cần liên doanh sản xuất một số sản phẩm hóa dầu nhằm tạo giá trị gia tăng và sử dụng ưu thế gần nguồn khí thiên nhiên có trữ lượng lớn (tích hợp lọc dầu và hóa dầu từ khí).

Chủ tịch HĐTV BSR Nguyễn Hoài Giang:

Trước đây, mỗi khi nhắc đến vấn đề nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất, mọi người thường nghĩ chắc phải xa xôi lắm. Nhưng không phải, ngay giờ đây, lãnh đạo công ty xác định đây đã là vấn đề khẩn cấp, nghiêm túc cần giải quyết hàng đầu. Đó chính là mối quan tâm hàng đầu của BSR trong năm 2014 và ngay hiện nay. Dự kiến công tác nâng cấp, mở rộng nhà máy cần tới 6-8 năm để hoàn tất. Như vậy, cứ cho rằng trong năm 2014 Dung Quất tìm được đối tác để tiến hành, thì phải tới 2020-2022 mới xong xuôi. Từ bây giờ đến lúc đó, nguồn dầu thô đầu vào ít nhất phải được đảm bảo cung ứng ở mức đáp ứng đủ công suất thiết kế. BSR đang gia tăng tìm kiếm nguồn dầu thô phổ biến trên thế giới có thể pha trộn vào nguồn dầu thô hiện tại nhằm giảm sức ép đối với những vấn đề nguyên liệu đầu vào.

Bên cạnh đó, BSR cũng đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án phân xưởng thu hồi lưu huỳnh (SRU) để gia tăng tỷ lệ pha trộn dầu thô vào nguồn hiện tại. Hai cách trên đều hướng tới mục tiêu đảm bảo ổn định và an toàn đối với nguồn nguyên liệu đầu vào cho đến khi hoàn tất nâng cấp, mở rộng nhà máy.

Về công tác nâng cấp, đây là vấn đề rất lớn bởi liên quan trực tiếp đến chi phí về vốn. Theo tính toán ban đầu, mở rộng nhà máy công suất lên 10 triệu tấn/năm cần nguồn vốn khoảng 1,5-2,5 tỉ USD tùy theo cấu hình và công nghệ kỹ thuật lựa chọn. Trên thực tế, ngay sau khi nhận bàn giao nhà máy, BSR đã bắt tay ngay vào tìm kiếm đối tác bởi nhìn thấy những khó khăn của Dung Quất từ sau 2015. Đó là lý do vì sao hiện tại ban lãnh đạo BSR đã đặt vấn đề mở rộng nhà máy vào tình trạng “khẩn cấp”.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Phạm Như Sô:

Nhớ lại 10 năm về trước, khi đó Dung Quất chỉ là một vùng đất khô cằn, chỉ có cát trắng, những đồi phi lao cằn cỗi và gần như bị lãng quên trong sự phát triển của 2 đầu đất nước. Thời kỳ đó, Quảng Ngãi cũng là một tỉnh thuần nông nghèo, người dân có thu nhập thấp, đời sống khó khăn; nguồn thu ngân sách rất eo hẹp và luôn phải nhờ sự hỗ trợ của Trung ương.

Tuy nhiên, kể từ 10 năm trở lại đây, Dung Quất được cả nước biết đến là một vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với trái tim là nhà máy lọc dầu số 1 Việt Nam. Từ một trong những tỉnh còn khó khăn của cả nước, Quảng Ngãi đã vươn lên đứng vào hàng thứ 4 trong các tỉnh có mức thu ngân sách cao. Đây là giai đoạn chứng kiến sự phát triển bứt phá của tỉnh Quảng Ngãi trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Cùng với quá trình hình thành, phát triển của NMLD Dung Quất, Khu kinh tế (KKT) Dung Quất được đánh giá là một trong những KKT tiên phong và thành công trong cả nước, với 113 dự án lớn khác được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn trên 140 ngàn tỉ đồng (tương ứng trên 8 tỉ USD).

Một tín hiệu đáng mừng là vào những năm trước năm 2000, làn sóng người lao động và những người có kiến thức, tay nghề cao rời bỏ Dung Quất, rời bỏ Quảng Ngãi ra đi thì nay đang di chuyển theo chiều ngược lại, từ các thành phố lớn nhiều người lao động có trình độ đã trở về Quảng Ngãi làm việc. Tại KKT Dung Quất trong những năm qua đã có hàng vạn lao động, hàng ngàn chuyên gia, kỹ sư lành nghề hoạt động trong điều kiện, môi trường thuận lợi, riêng tại NMLD Dung Quất đã có trên 1.000 cán bộ, kỹ sư, công nhân mà con em Quảng Ngãi, chiếm hơn 50%. Đời sống của các bộ viên chức, kỹ sư, công nhân của nhà máy nói riêng và tại KKT Dung Quất được đảm bảo, tạo sự yên tâm công tác gắn bó lâu dài.

Tổng giám đốc BSR Đinh Văn Ngọc:

NMLD Dung Quất đang phải tiếp tục đối diện với những thách thức hoàn toàn mới trong quá trình vận hành, đó là những vấn đề về quản lý và làm chủ kỹ thuật công nghệ, về hệ thống tiêu chuẩn và quy trình vận hành, về tối ưu hóa sản xuất và thực hành tiết kiệm, về mở rộng nâng cấp nhà máy và tìm kiếm nguồn dầu thô đầu vào, về chuyên nghiệp hóa các mảng thương mại dịch vụ, quản trị nhân sự, quảng bá hình ảnh, quan hệ quốc tế v.v... Trong đó còn có thách thức về tiêu chuẩn phát thải.

Theo Quyết định số 49/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành lộ trình áp dụng khí thải đối với xe ôtô và môtô 2 bánh sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu mới là ôtô áp dụng tiêu chuẩn Euro 4 từ ngày 1/1/2017 và tiêu chuẩn Euro 5 vào 1/1/2022. Hiện nay sản phẩm của NMLD Dung Quất là Euro 2. Trong khi đó, chỉ vài năm nữa thôi, khi Nghi Sơn và Vũng Rô đi vào hoạt động, họ sẽ cho ra sản phẩm tiêu chuẩn Euro 4, lúc đó sản phẩm của Dung Quất sẽ bị thua thiệt. Bởi vậy, có chăng nên để tồn tại 2 tiêu chuẩn Euro 2 và Euro 4 sau năm 2017 và phân phối 2 sản phẩm này trên cùng một hệ thống bán lẻ?

Việc nâng cấp NMLD Dung Quất dự kiến theo 2 phương án là tự đầu tư hoặc liên doanh, trong đó ưu tiên làm việc với các đối tác tiềm năng đang quan tâm đến dự án là Gazpromneft (Liên bang Nga)... để liên doanh, hợp tác đầu tư.

Ngoài ra, BSR cần nghiên cứu và triển khai các hướng công nghệ phù hợp để chế biến sâu hóa dầu từ khí mỏ Cá Voi Xanh gắn với dự án mở rộng NMLD Dung Quất.

Ông Phạm Văn Bắc, Phó trưởng ban Chế biến Dầu khí Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN):

Chiến lược phát triển của BSR đã được PVN phê duyệt là tiến tới cổ phần hóa. Chuyển nhượng khoảng 25-49% vốn chủ hữu tại BSR theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Nhiều đối tác như Gazpromneft, SK Energy đang rất quan tâm tới dự án nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất. Song quan điểm của PVN và BSR là không dừng lại ở những đối tác đang có mà cần tiếp tục tìm đối tác tiềm năng khác để dự án được triển khai sớm nhất.

Một cơ hội đang mở ra cho NMLD Dung Quất chính là việc tìm ra mỏ khí ở ngoài khơi Trung Trung Bộ với trữ lượng dự báo là lớn, đủ để phát triển một khu công nghiệp khí - điện ở Dung Quất. Trên thế giới đã có công nghệ lọc hóa dầu từ khí và dầu thô. Nếu việc này được triển khai thì BSR phải lựa chọn công nghệ cho phù hợp.

Khi các điều kiện đang thuận lợi, BSR cần khẩn trương thực hiện các giải pháp ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng nhà máy. Nghiên cứu song song cả hai phương án: tự đầu tư hoặc liên doanh đầu tư dài hạn. Việc cần kíp là BSR triển khai việc tìm kiếm nguồn dầu thô thay thế dầu ngọt Bạch Hổ, định giá tài sản và phân kỳ đầu tư.
 

THÔNG ĐIỆP TỪ NHÀ MÁY:

Năm 2005, khi bắt đầu triển khai các gói thầu EPC, GDP bình quân đầu người của tỉnh Quảng Ngãi là 319USD; tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 546,2 tỉ đồng. Cũng trong năm đó, những người lao động trong nước và quốc tế trên công trường NMLD Dung Quất đã cam kết: Chúng ta sẽ làm được!

Năm 2008, khi kết thúc giai đoạn xây dựng của dự án, GDP bình quân đầu người của Quảng Ngãi tăng lên 608USD; tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 1.557,2 tỉ đồng.

Năm 2013, sau 5 năm chúng ta vận hành nhà máy, GDP bình quân đầu người của Quảng Ngãi tăng 2.040USD, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt trên 30.178 tỉ đồng, trong đó đóng góp của BSR là 28.415 tỉ đồng. Và bây giờ tập thể CBCNV của BSR có thể nói rằng: Chúng ta đã làm được!

Quá trình xây dựng và vận hành NMLD Dung Quất là một quá trình lịch sử, những gian khổ và thử thách trong thực tiễn đã tôi luyện được một đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân kỹ thuật giỏi về chuyên môn, có ý thức kỷ luật lao động cao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, tiên phong của khâu sau, xứng đáng là biểu tượng của giai cấp công nhân thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh.

Trước mắt chúng ta đang mở ra những cơ hội, song cũng có nhiều thách thức rất to lớn. Đó là chiến lược về mở rộng và nâng cấp nhà máy, tìm kiếm nguồn dầu thô nguyên liệu đầu vào, tái cấu trúc và cổ phần hóa công ty, xác định nguồn vốn khả thi để phục vụ đầu tư cho giai đoạn từ nay đến 2025.

Trong bối cảnh hiện nay, khi các dự án LHD khác đã và đang được đầu tư dưới nhiều hình thức tại Việt Nam, thì những vấn đề về cạnh tranh công nghệ, nhân lực, thương mại, thị trường v.v... ngày càng trở thành những thách thức đối với tương lai của NMLD Dung Quất.

 

Đức Chính - Tiến Dũng

DMCA.com Protection Status