Chứng khoán Mỹ tiếp tục tăng mạnh ngày thứ 2 liên tiếp

10:57 | 05/10/2022

362 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chỉ số Dow Jones tăng hơn 1.500 điểm trong hai ngày, còn S&P 500 đánh dấu mức tăng trong 2 ngày mạnh nhất kể từ năm 2020.

Nối tiếp đà tăng phiên đầu tuần, các chỉ số chứng khoán trên thị trường phố Wall hôm qua (4/10) tiếp tục tăng mạnh trong bối cảnh đồng USD suy yếu và lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ đi xuống.

Chứng khoán Mỹ tiếp tục tăng mạnh ngày thứ 2 liên tiếp - 1
Thị trường khởi đầu tháng 10 với mức tăng mạnh mẽ, bù đắp cho sự sụt giảm mạnh trong tháng 9 và quý trước (Ảnh: Reuters).

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones tăng 825,43 điểm, tương đương 2,8%, lên mức 30.316,32 điểm. Chỉ số S&P 500 đóng cửa tăng gần 3,1%, lên mức 3.790,93 điểm. Trong khi đó, chỉ số Nasdaq Composite cũng chốt phiên ở mức 11.176,41 điểm, tăng 3,3%.

Với mức tăng này, S&P 500 đã tăng 5,7% trong tuần và đánh dấu hai ngày tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2020.

Thị trường khởi đầu tháng 10 với mức tăng mạnh mẽ, bù đắp cho sự sụt giảm mạnh trong tháng 9 và quý trước. Trong phiên đầu tiên của tháng 10 (3/10), Dow Jones đã tăng 765 điểm, mức tăng điểm trong ngày tốt nhất kể từ 24/6. S&P 500 cũng tăng 2,6%, đánh dấu mức tăng trong ngày tốt nhất kể từ 27/7, trong khi Nasdaq cũng phục hồi thêm 2,3%.

Mark Haefele, trưởng phòng đầu tư tại UBS Global Wealth Management, cho rằng: "Sau mức giảm hơn 9% trong tháng 9 và gần 25% kể từ đầu năm đến phiên cuối tuần trước, chúng tôi cho rằng S&P 500 đã rơi vào vùng quá bán. Ngoài ra, một số áp lực bán tháo tuần trước cũng đã kết thúc".

Ông cho rằng với tâm lý thị trường vốn đã ở mức rất yếu, nên khả năng sẽ có đợt hồi phục định kỳ. Nhưng thị trường vẫn có thể biến động trong ngắn hạn do bị tác động bởi lạm phát và chính sách đối phó với lạm phát của Mỹ.

Giới phân tích cho rằng, tâm lý của các nhà đầu tư đã được cải thiện trong hai phiên vừa qua khi lợi tức trái phiếu kho bạc hạ nhiệt sau khi lên mức cao nhất trong hơn 10 năm. Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ ngày 4/10 còn khoảng 3,63%, giảm so với mức hơn 4% trong tuần trước. Ngoài ra, đồng USD suy yếu hơn cũng là động lực giúp thị trường chứng khoán hồi phục. Chỉ số USD-Index đã giảm 1,5% trong phiên giao dịch hôm qua, xuống còn 110,06 điểm. Tuần trước chỉ số này được giao dịch ở mức cao 114,78 điểm khi có lo ngại về sự sụp đổ của thị trường trái phiếu chính phủ Anh.

Thị trường cũng được thúc đẩy nhờ cổ phiếu của Credit Suisse hồi phục mạnh, tăng 12% trong phiên hôm qua. Hôm đầu tuần, đã có những lo ngại về sức khỏe tài chính của nhà băng này, thậm chí có tin đồn Credit Suisse phá sản. Tuy nhiên, khẳng định với Reuters, ngân hàng này cho biết họ vẫn có thanh khoản dồi dào. Chi tiết về kế hoạch cải tổ sẽ được công bố trong báo cáo kết quả kinh doanh quý III vào ngày 27/10.

Trong một động thái đáng chú ý, cổ phiếu Twitter đã tăng 22% sau khi tỷ phú Elon Musk "quay xe", đồng ý mua lại mạng xã hội này với mức giá ban đầu là 54,2 USD/cổ phiếu.

Đà tăng của các cổ phiếu được hỗ trợ khi dữ liệu về việc làm cho thấy thị trường lao động đang suy yếu hơn, khiến một số nhà giao dịch cho rằng Fed sẽ ngừng chiến dịch thắt chặt mạnh tay sớm hơn dự kiến.

Tuy nhiên, bà Holly Newman Kroft, cố vấn tài sản cấp cao tại Neuberger Berman cho rằng, đà phục hồi hiện tại không khác gì so với mức tăng mà chúng ta đã chứng kiến trong mùa hè. "Thị trường sẽ không hồi phục cho đến khi Fed phát tín hiệu ngừng tăng lãi suất và điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi lạm phát bắt đầu đi xuống", bà nói.

Theo Dân trí

Hy vọng le lói thắp lên sau cơn bán tháo khủng khiếp của chứng khoán ViệtHy vọng le lói thắp lên sau cơn bán tháo khủng khiếp của chứng khoán Việt
Chứng khoán châu Á, Mỹ cùng bật tăngChứng khoán châu Á, Mỹ cùng bật tăng
Hoảng loạn bán tháo, giới đầu tư chấp nhận thua lỗ nặng nề với chứng khoánHoảng loạn bán tháo, giới đầu tư chấp nhận thua lỗ nặng nề với chứng khoán
Kênh chứng khoán vẫn hấp dẫn bất chấp lãi suất tăngKênh chứng khoán vẫn hấp dẫn bất chấp lãi suất tăng

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,868 15,888 16,488
CAD 18,007 18,017 18,717
CHF 27,001 27,021 27,971
CNY - 3,367 3,507
DKK - 3,502 3,672
EUR #25,936 26,146 27,436
GBP 30,808 30,818 31,988
HKD 3,041 3,051 3,246
JPY 159.89 160.04 169.59
KRW 16.25 16.45 20.25
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,210 2,330
NZD 14,580 14,590 15,170
SEK - 2,246 2,381
SGD 17,844 17,854 18,654
THB 629.79 669.79 697.79
USD #24,563 24,603 25,023
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 21:00