Giá vàng hôm nay 8/8: Đà lao dốc chưa dứt, cố giữ mốc 1.750 USD/Ounce

08:08 | 08/08/2021

367 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Đồng USD phục hồi và lợi suất trái phiếu Mỹ tăng trong bối cảnh dòng tiền của nhà đầu tư dịch chuyển mạnh vào tài sản rủi ro khiến giá vàng hôm nay ghi nhận tuần giảm giá mạnh nhất kể từ đầu năm 2021.

Giá vàng bước vào tuần giao dịch từ ngày 2/8 với sự kỳ vọng cao khi dịch Covid-19 do biến chủng Delta đang tạo ra những tác động tiêu cực ngày một lớn đối với bức tranh kinh tế toàn cầu. Việc FED giữ nguyên quan điểm về lãi suất cơ bản đồng USD và phát tín hiệu về việc xem xét giảm quy mô gói mua tài sản được đánh giá là động lực hỗ trợ giá vàng trong tuần giao dịch từ ngày 2/8 đi lên.

gia-vang-tuan-toi-co-kha-nang-tang-manh
Ảnh minh hoạ

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 2/8, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.816,42 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.814,6 USD/Ounce.

Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường vàng đã không như kỳ vọng. Động lực tăng giá, hỗ trợ kim loại quý không đủ mạnh, trong khi áp lực giảm giá trên thị trường không ngừng tăng đã khiến giá vàng không thể bứt phá, thậm chí ngày một suy giảm.

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và gia tăng ở nhiều quốc gia làm dấy lên nhiều lo ngại về chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, nhưng theo các dữ liệu kinh tế được công bố thì có vẻ như điều này đã không quá nghiêm trọng như dự báo. Bức tranh kinh tế toàn cầu vẫn ghi nhận nhiều gam màu sáng đủ để làm cơ sở cho giới đầu tư đẩy mạnh dòng tiền vào các tài sản rủi ro nhưng có khả năng sinh lời cao.

Chỉ số quản lý sức mua PMI của nền kinh tế Mỹ là 59,5 điểm. Con số này thấp hơn mức kỳ vọng 60,9 điểm nhưng ở chiều hướng ngược lại, nó lại cho thấy, nền kinh tế số 1 thế giới vẫn giữ đà tăng trưởng. Chỉ số này ở mức trên 50 điểm là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại.

Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn có sự tăng trưởng do tác động tiêu cực của dịch Covid-19 đang lan rộng tại nhiều quốc gia. Mặc dù vậy, nền kinh tế không rơi vào trạng thái suy giảm và các chương trình tiêm chủng vắc xin, phòng chống dịch bệnh được đẩy mạnh. Và khi thông tin Mỹ đã hoàn thành tiêm vắc xin Covid-19 cho 70% được phát đi thì nó đã trở thành cú hích tâm lý rất lớn với nhà đầu tư, góp phần giúp thị trường chứng khoán toàn cầu có tuần giao dịch tăng điểm mạnh.

Trong quý II/2021, tăng trưởng kinh tế của Mỹ vẫn được ghi nhận ở mức 6,5%, thấp hơn mức 8,5% của quý I/2021 nhưng vẫn được xem là mức cao so với mức tăng trưởng khoảng 2% trước đại dịch.

Sau tuyên bố về việc tiếp tục duy trì chương trình thu mua trái phiếu trị giá 120 tỷ, Lợi suất trái phiều Mỹ đã tăng trở lại.

Những lo ngại về tác động tiêu cực của dịch Covid-19 đối với kinh tế toàn cầu vì thế cũng rất hạn chế và chỉ đủ để giúp giá vàng không rơi vào trạng thái lao dốc trong những phiên giao dịch đầu tuần.

Và khi đồng USD lấy lại đà phục hồi khi ngân hàng trung ương nhiều nước tuyên bố giữ nguyên lãi suất và triển khai các gói hỗ trợ, kích thích kinh tế, thị trường chứng khoán tiếp tục duy trì đà tăng điểm ấn tượng, giá vàng đã quay đầu giảm mạnh.

Phó Chủ tịch FED Richard Clarida, trong phát biểu hôm thứ Tư, cho biết các điều kiện để tăng lãi suất có thể được đáp ứng vào cuối năm 2022. Đồng thời, Phó Chủ tịch FED cũng gợi ý về việc cắt giảm việc mua tài sản vào cuối năm 2021 hoặc đầu năm 2022.

Chốt tuần giao dịch, chỉ số đo sức mạnh của đồng bạc xanh so với rổ 6 loại tiền tệ chính, đứng ở mức 92,780 điểm.

Lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm sau khi trượt về mức 1,18% đã bật tăng mạnh trở lại trong phiên giao dịch cuối tuần, lên mức 1,237%.

Cùng với những dữ liệu kinh tế tích cực trong tuần, lo ngại về dịch Covid-19 đã bị lấn át hoàn toàn khi dữ liệu việc làm của Mỹ được công bố vượt xa các dự báo, qua đó càng củng cố thêm về triển vọng tăng trưởng, phục hồi kinh tế.

Cụ thể, theo Cục Thống kê Lao động Mỹ, trong tháng 7/2021, số việc làm phi nông nghiệp của nước này đã tăng tới 943.000, cao hơn nhiều so với dự báo 870.000. Tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế Mỹ cũng giảm xuống còn 5,4%.

Bình luận về loạt dữ liệu việc làm đầy tích cực trên, giới chuyên gia cho rằng kinh tế Mỹ vẫn đang giữ được đà tăng trưởng tốt, và điều này là rất ấn tượng trong bối cảnh dịch Covid-19 đang tái bùng tại nhiều bang của nước này. Cùng với những phát biểu cứng rắn của FED trước đó, nhiều chuyên gia cũng nhận định các điều kiện cần thiết cho một kỳ điều chỉnh chính sách của FED ngày càng rõ hơn. Một khi lãi suất được điều chỉnh cao hơn sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng, qua đó có thể khiến giá vàng giảm.

Việc các Quỹ đầu tư tiếp tục giảm lượng vàng nắm giữ cũng là nhân tố tạo áp lực giảm giá lên kim loại quý.

Khép tuần giao dịch, giá vàng ngày 8/8 ghi nhận giá vàng thế giới giao ngay đứng ở mức 1.763,08 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.760,8 USD/Ounce.

Tại thị trường trong nước, trái với diễn biến tiêu cực của giá vàng thế giới, giá vàng SJC trong nước tuần qua chỉ giảm nhẹ. Điều này đã làm gia tăng mức chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới lên cao. Chốt tuần giao dịch, giá vàng hôm nay ghi nhận giá vàng 9999 hiện được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh đứng ở mức 56,30 – 57,00 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra). Trong khi đó, giá vàng miếng SJC được Tập đoàn DOJI niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,35 – 57,80 triệu đồng/lượng. Còn tại Phú Quý SJC, giá vàng 9999 được niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,40 – 57,30 triệu đồng/lượng.

Với những diễn biến trong phiên giao dịch ngày 6/8, giá vàng tuần tới được giới chuyên gia dự báo sẽ tiếp tục xu hướng giảm mạnh với mốc dự báo là 1.750 USD/Ounce.

Theo kết quả khảo sát xu hướng giá vàng hàng tuần của Kitco, trong số 15 nhà phân tích Phố Wall tham gia khảo sát thì có tới 13 phiếu cho rằng giá vàng giảm, chỉ 2 nhà phân tích cho rằng giá vàng đi ngang và không có phiếu nào nhận định giá vàng tăng.

Nhận định về xu hướng giá vàng tuần tới, Colin Cieszynski, chiến lược gia thị trường trưởng tại SIA Wealth Management, cho rằng: Vàng có vẻ như đã sẵn sàng rơi tự do. Nếu ngưỡng 1750 USD/Ounce không được giữ, thì mức hỗ trợ chính tiếp theo là từ 1.700 đến 1.680 USD/Ounce.

Minh Ngọc

Agribank đồng loạt miễn, giảm các loại phí dịch vụ và lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng vượt qua đại dịch Covid-19Agribank đồng loạt miễn, giảm các loại phí dịch vụ và lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng vượt qua đại dịch Covid-19
Lo giá vật liệu tăng cao Lo giá vật liệu tăng cao "thổi" chi phí đầu tư sân bay Long Thành
Nền kinh tế Việt Nam sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19 như thế nào?Nền kinh tế Việt Nam sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19 như thế nào?
BIDV nhận giải “Ngân hàng lưu ký - giám sát tốt nhất Việt Nam 2021”BIDV nhận giải “Ngân hàng lưu ký - giám sát tốt nhất Việt Nam 2021”
Trong đại dịch, Agribank tiếp tục khẳng định vai trò huyết mạch trong phát triển tam nông và nền kinh tế đất nướcTrong đại dịch, Agribank tiếp tục khẳng định vai trò huyết mạch trong phát triển tam nông và nền kinh tế đất nước
Ồn ào đổi chủ, Ồn ào đổi chủ, "nữ tướng" 8X ngồi ghế nóng chủ tịch ngân hàng nghìn tỷ đồng
Việt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USDViệt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USD
6 tháng đầu năm, hoạt động kinh doanh của VietinBank đạt kết quả đáng ghi nhận6 tháng đầu năm, hoạt động kinh doanh của VietinBank đạt kết quả đáng ghi nhận

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,650
AVPL/SJC HCM 81,700 83,700
AVPL/SJC ĐN 81,700 83,700
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,650
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 83.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 7,670
Trang sức 99.9 7,455 7,660
NL 99.99 7,460
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 7,700
Miếng SJC Thái Bình 8,190 8,370
Miếng SJC Nghệ An 8,190 8,370
Miếng SJC Hà Nội 8,190 8,370
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 83,800
SJC 5c 81,800 83,820
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 83,830
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,981 16,001 16,601
CAD 18,171 18,181 18,881
CHF 27,422 27,442 28,392
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,203 26,413 27,703
GBP 30,917 30,927 32,097
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.29 160.44 169.99
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,224 2,344
NZD 14,703 14,713 15,293
SEK - 2,249 2,384
SGD 18,106 18,116 18,916
THB 637 677 705
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 02:00