Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 33)

06:15 | 12/12/2022

3,052 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
(PetroTimes) - Mục tiêu chính của phương Tây vào giữa những năm 1970 như những gì mà Kissinger miêu tả, đó là sự thay đổi các "điều kiện khách quan" trên thị trường mà từ đó hình thành nên sức mạnh dầu mỏ − các điều kiện đó là cân bằng cung cầu, và sự phụ thuộc hoàn toàn vào dầu mỏ của các nền kinh tế công nghiệp.

CHƯƠNG 32: SỰ ĐIỀU CHỈNH

Việc giá dầu không còn rẻ có phải là dấu hiệu chấm hết cho thời đại Hydrocarbon? Liệu con người thời đại Hydrocarbon có đáp ứng đủ lượng dầu để vận hành hệ thống máy móc, cung cấp nguyên liệu để duy trì hoạt động? Nếu như vào thập niên 1950 và 1960, giá dầu rẻ và cung dầu dồi dào là động lực cho tăng trưởng kinh tế và đã gián tiếp góp phần thúc đẩy hòa bình xã hội thì nay, dường như việc giá dầu ngày càng trở nên đắt đỏ trong khi cung dầu không được bảo đảm đang kiềm chế, kéo lùi, thậm chí thủ tiêu tăng trưởng kinh tế. Ai có thể đoán định được những tác động đến xã hội và chính trị mà sự kiện này đem lại? Càng ngày những rủi ro này càng hiện lên rõ nét hơn bởi những thập kỷ đau thương giữa hai cuộc chiến tranh thế giới đã mang lại cho loài người một bài học quý giá là: Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò tối quan trọng cho sự sống còn của các thể chế dân chủ. Trước đây, các nước xuất khẩu dầu vẫn thường than thở rằng giá dầu đã khiến chủ quyền của họ bị suy yếu thì kể từ sau năm 1973, chính các quốc gia công nghiệp mới là những nước đang bị xói mòn, bị đột kích, an ninh quốc gia bị đe dọa, và các chính sách đối ngoại bị kiềm chế quyền tối thượng. Cốt lõi quyền lực trong hệ thống chính trị quốc tế dường như có sự chuyển hóa cơ bản sau các phản ứng liên quan tới dầu. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với thời đại Hydrocarbon cũng như đối với toàn bộ thế giới công nghiệp nói chung, thập niên 1970 chính là thập niên của thù hằn, căng thẳng, lo lắng và của chủ nghĩa bi quan.

dau mo tien bac va quyen luc ky 33
Thập niên 1970 thế giới tập trung thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp, mà cụ thể là khuyến khích giảm tiêu thụ dầu

Tuy nhiên, con người thời đại Hydrocarbon không dễ từ bỏ những di sản thời hậu chiến, và giờ đây một quá trình điều chỉnh lớn lao những thực tế bắt đầu. Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) giờ không còn đối đầu (như nước Pháp đã dự đoán) mà trở thành một tổ chức điều phối giữa các nước phương Tây, là cơ quan điều hòa các chính sách năng lượng giữa các nước này sao cho chúng hoạt động song hành. Người ta đã tiến hành các quy trình để xây dựng một chương trình khẩn cấp về năng lượng chung và coi đây là mục tiêu cho các chương trình dự trữ dầu chiến lược dưới sự quản lý của chính phủ, lượng dầu dự trữ này có thể được huy động để bù đắp lượng thiếu hụt trong trường hợp mất cân bằng cung cầu. Cơ quan năng lượng quốc tế cũng tổ chức một diễn đàn nhằm đánh giá các chính sách năng lượng của các quốc gia, đồng thời nghiên cứu các nguồn năng lượng truyền thống và các nguồn năng lượng mới.

Mục tiêu chính của phương Tây vào giữa những năm 1970 như những gì mà Kissinger miêu tả, đó là sự thay đổi các "điều kiện khách quan" trên thị trường mà từ đó hình thành nên sức mạnh dầu mỏ − các điều kiện đó là cân bằng cung cầu, và sự phụ thuộc hoàn toàn vào dầu mỏ của các nền kinh tế công nghiệp. Trước vấn đề giá dầu và mối lo ngại an ninh năng lượng, hầu hết các quốc gia công nghiệp đều bắt tay vào các chính sách năng lượng, trong đó đặt trọng tâm là giảm dần sự lệ thuộc vào dầu nhập khẩu. Trong nỗ lực nhằm thay đổi các "điều kiện khách quan" đó, mỗi nước tiêu thụ dầu lớn lại tìm cho mình một con đường riêng, qua đó phản ánh văn hóa chính trị và các đặc trưng của quốc gia mình, như Nhật Bản với sự đồng thuận của nhà nước và tư nhân, Pháp dưới hình thức chính sách kinh tế chỉ huy có sự lãnh đạo trực tiếp của nhà nước và Mỹ với hình thức thảo luận chính trị nảy lửa như vẫn thường diễn ra. Hình thức có thể rất khác nhau nhưng đều thống nhất ở các nhân tố cần thiết nhằm làm giảm thế lực dầu mỏ mới nổi lên: sử dụng các nhiên liệu thay thế, tìm kiếm các nguồn dầu đa dạng, đồng thời tiến hành bảo tồn.

Phản hồi của các quốc gia

Sau sự bất ngờ, hốt hoảng ban đầu trước lệnh cấm vận dầu của các nước Arập, Nhật Bản bắt đầu đưa ra những điều chỉnh. Bộ Công nghiệp và Ngoại thương Nhật Bản đã đưa ra thông điệp của mình bằng việc cắt giảm sử dụng thang máy tại tòa nhà trụ sở của bộ. Để giảm nhu cầu sử dụng điều hòa nhiệt độ trong những tháng hè nóng nực, người Nhật đã khuyến khích các sáng kiến thay đổi thời trang cho nam giới và kết quả là sự ra đời của bộ com-lê công sở với áo vét cộc tay được biết đến với cái tên shoene rukku – "phong cách bảo toàn năng lượng". Trong khi dịch vụ thang máy vẫn được cắt giảm thì bộ trang phục mới lại không nhận được hưởng ứng từ phía người dân bất chấp sự ủng hộ nhiệt tình của Thủ tướng Nhật. Một cuộc tranh luận gay gắt về các vấn đề năng lượng đã nổ ra giữa các nhà lãnh đạo Nhật Bản. Tuy nhiên, ở mọi khía cạnh, quốc gia này đều cam kết sẽ thay đổi quyết liệt tình trạng năng lượng hiện thời – tình trạng dựa vào nhập khẩu dầu giá rẻ và bảo đảm từ các nước Trung Đông để phát triển kinh tế trong nước kể từ đầu những năm 1960. Đến khi nguồn dầu nhập khẩu không còn rẻ và bảo đảm nữa, nền kinh tế Nhật trở nên dễ bị ảnh hưởng và điều này một lần nữa chứng minh cho sự phụ thuộc đó. Hàng loạt các biện pháp ứng phó, thay đổi được hưởng ứng và áp dụng. Các biện pháp bao gồm: thay việc sử dụng dầu mỏ để sản xuất điện và sản xuất công nghiệp bằng các nguồn năng lượng khác, thúc đẩy phát triển năng lượng hạt nhân, mở rộng nhập khẩu than đá và khí hóa lỏng, đồng thời đa dạng hóa nguồn dầu nhập khẩu, chuyển hướng từ các nước Trung Đông sang các nước trong khu vực Thái Bình Dương. "Ngoại giao về vấn đề tài nguyên" được đưa lên hàng đầu trong các quan hệ quốc tế của Nhật, bởi quốc gia này đang vật lộn để tìm kiếm các nhà sản xuất dầu và các nhà cung cấp năng lượng ở cả Trung Đông và khu vực Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, không một nỗ lực nào lại có tính tập trung và mang lại nhiều tác động quan trọng tức thời hơn sự phối hợp lãnh đạo giữa nhà nước và giới doanh nghiệp để thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp, mà cụ thể là khuyến khích giảm tiêu thụ dầu. Thành công của chiến dịch vượt xa những dự đoán ban đầu và cũng chính là nhân tố quan trọng hàng đầu nhằm tạo dựng lợi thế so sánh quốc tế mới cho Thương mại Nhật Bản. Trên thực tế, các biện pháp ứng phó này đã hình thành nên tiêu chuẩn cho toàn bộ ngành công nghiệp. Ông Naohiro Amaya, sau này là Thứ trưởng bộ Công nghiệp và Ngoại Thương Nhật Bản (MITI) nhớ lại: "Sau năm 1973, cả giới công nhân và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều tỏ ra rất hoang mang, lo sợ. Họ lo cho sự tồn vong của công ty mình và vì thế, mọi người xích lại gần nhau hơn". Năm 1971, MITI đã tiến hành một nghiên cứu nhằm đánh giá nhu cầu chuyển đổi từ nền công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng sang nền công nghiệp tri thức. Nghiên cứu này dựa trên tiền đề là nhu cầu dầu mỏ của Nhật đang tăng trưởng quá nhanh; điều này có thể tạo áp lực quá mức lên thị trường dầu thế giới. Các ngành công nghiệp nặng không mấy mặn mà với nghiên cứu này, bởi nó chỉ ra rằng các ngành này sẽ không còn được coi trọng trong tương lai. Hơn thế nữa, kết quả nghiên cứu này lại được đưa ra vào thời điểm giá dầu vẫn còn thấp, vì thế nó bị công luận chỉ trích nhiều. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã tạo động lực để thực hiện chính sách mới này với tốc độ chóng mặt. Ông Amaya tâm sự: "Thay vì sử dụng các nguồn tài nguyên trong lòng đất, chúng tôi sử dụng nguồn tài nguyên trong chính đầu óc con người", và nói thêm: "Người Nhật Bản đã quen với thiên tai như động đất hay bão lũ. Cú sốc năng lượng này cũng là một dạng của động đất và vì thế, mặc dù đây là một cuộc khủng hoảng lớn, chúng tôi vẫn luôn sẵn sàng ứng phó".

Ông còn cho hay: "Ở một khía cạnh nào đó, nó cũng là may mắn bởi nó đòi hỏi sự thay đổi nhanh chóng toàn bộ nền công nghiệp Nhật Bản".

Tại Pháp, Jean Blancard là quan chức cao cấp nhất trong lĩnh vực năng lượng và dày dặn kinh nghiệm về ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông là kỹ sư, đồng thời cũng là thành viên của Corps des Mines. Với vai trò là Tổng đại diện năng lượng trong Bộ Công nghiệp, Blancard điều phối các chính sách của chính phủ cũng như chính sách của các công ty năng lượng quốc doanh. Đầu năm 1974, trong khi Paris đang cố theo đuổi chính sách hòa giải song phương đối với các nước sản xuất dầu mỏ thì Blancard lại đưa ý kiến đối lập của mình tới Tổng thống Georges Pompidou: "Giai đoạn sắp tới tình hình sẽ tương đối khác − đó là quá trình chuyển đổi chứ không phải là một cuộc khủng hoảng... Không hợp lý chút nào khi một quốc gia lớn mạnh như chúng ta lại phải dựa vào quyết định của các nước A Rập. Chúng ta cần phải theo đuổi chính sách đa dạng hóa nguồn năng lượng và giảm dần nhu cầu dầu mỏ, hay chí ít cũng đừng để nhu cầu này leo thang".

Ý kiến của Blancard được Tổng thống Pompidou đón nhận. Đầu năm 1974, tổng thống đã tổ chức một cuộc họp với các cố vấn cao cấp. Do bị ốm nặng nên tổng thống quá mệt mỏi với các tác động của liệu pháp điều trị; trong suốt cuộc họp kéo dài, cơn đau đã hành hạ tổng thống. Tuy nhiên, cuộc thảo luận cũng đưa ra được 3 nguyên tắc chủ yếu trong chính sách năng lượng của Pháp: Thứ nhất, nhanh chóng phát triển năng lượng hạt nhân; thứ hai, quay về dạng năng lượng than truyền thống; và thứ ba, nhấn mạnh vai trò quan trọng của bảo tồn năng lượng. Cả ba nguyên tắc này đều nhằm khôi phục sự tự chủ của Pháp. Chưa đầy một tháng sau cuộc họp, Pompidou qua đời nhưng người kế nhiệm ông, Tổng thống Valery Giscard d’Estaing đã tiến hành cả ba nguyên tắc này. Do hệ thống chính quyền Pháp chuyên chế hơn nhiều so với các nước phương Tây khác đối với các đối tượng can thiệp từ bên ngoài, như các nhà hoạt động môi trường; nên trong vòng vài năm nước này đã bỏ xa các nước khác trong việc thực hiện cam kết phát triển năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, cũng có nhiều nước khác phát triển năng lượng hạt nhân, nên vào đầu những năm 1980, lĩnh vực phát điện là một trong những thị trường chính tại phương Tây đã bị mất dần do tác động của giá dầu. Trên thực tế, điều này cũng nằm trong tính toán, tuy vậy, không ở đâu mức độ giảm lại lớn như ở Pháp.

Chính phủ Pháp cũng tiến hành các chính sách quyết liệt nhất đối với vấn đề bảo tồn năng lượng. Các thanh tra viên có thể kiểm tra các ngân hàng, cửa hàng, văn phòng bất cứ lúc nào. Họ sử dụng một thiết bị nhiệt kế đặc biệt để đo nhiệt độ trong phòng. Nếu nhiệt độ thấp hơn mức cho phép là 20°C, cơ quan đó sẽ bị phạt. Tuy nhiên, khía cạnh đáng chú ý nhất trong chương trình bảo tồn năng lượng tổng thể của Pháp, và là một sáng kiến hoàn toàn của Pháp, đó là việc cấm bất cứ một quảng cáo nào "khuyến khích" người dân sử dụng năng lượng. Một nhà sản xuất có thể quảng cáo bếp lò di động của mình hiệu quả hơn so với các sản phẩm cùng loại, nhưng không thể nói bếp lò điện là hình thức sưởi ấm hữu hiệu nhất, bởi theo chính phủ điều sẽ khuyến khích mọi người sử dụng năng lượng. Người ta nói rằng, cán bộ của Cơ quan bảo tồn năng lượng Pháp thường nghe quảng cáo trên đài trên đường tới công sở và khi thấy có mẩu quảng cáo nào khuyến khích người dân sử dụng điện thì ngay đầu giờ trưa, mẩu quảng cáo đó sẽ buộc bị loại ra khỏi chương trình quảng cáo.

Việc cấm quảng cáo này đã khiến các công ty dầu lúng túng, bởi họ đã quen với việc tiến hành các chiến dịch quyết liệt chỉ để giành giật 1% thị phần xăng dầu từ các đối thủ cạnh tranh. Vậy mà bây giờ, điều tốt nhất mà họ có thể làm là quảng cáo các thành phần tiết kiệm xăng dầu trong các sản phẩm phụ gia. Ngay cả hãng Exxon với biểu tượng con hổ dũng mãnh cũng đã bị thuần hóa tại thị trường Pháp; không lâu sau, trên các can dầu, hãng này đã khéo léo gửi thông điệp tới người lái xe nên kiểm tra lại lốp xe, điều chỉnh động cơ để tiết kiệm xăng. Các công ty không được tặng các loại nữ trang, phần thưởng, những thứ mà các trạm xăng vẫn thường làm tại nhiều nước trên thế giới như: cốc, ca, thìa, đề-can, bởi những món quà này sẽ khuyến khích tiêu dùng. Thay vào đó, thứ duy nhất mà họ được quyền tặng là bộ dụng cụ rẻ tiền, nhưng với điều kiện bộ dụng cụ này phải gồm một bàn chải để làm sạch bộ phận đánh lửa, nhằm tăng tính hiệu quả.

Một trong hai công ty dầu mỏ quốc gia Pháp, Total, đã cố gắng tìm kiếm cách thức để lưu giữ hình ảnh, thương hiệu của công ty trong mắt người tiêu dùng. Cuối cùng, công ty này cũng tìm ra một biện pháp vô cùng thông minh. Công ty dựng lên các biển quảng cáo, trên đó vẽ đồng quê tươi đẹp của nước Pháp với một thông điệp đơn giản: "Đây là nước Pháp" và ký dưới đó "Total". Biện pháp quảng cáo này cũng bị cấm. Công ty Total đã vô cùng tức giận và yêu cầu đưa ra lời giải thích. Ông Jean Syrota, giám đốc Cơ quan bảo tồn năng lượng đã trả lời: "Điều này vô cùng đơn giản. Người tiêu dùng sẽ nhìn vào biển quảng cáo của các anh và họ sẽ nghĩ: Các công ty dầu mỏ đã tốn rất nhiều tiền vào biển quảng cáo kiểu này và như vậy công ty chắc chắn rất giàu có, chắc hẳn là không có vấn đề gì về năng lượng vì thế phung phí năng lượng, cũng sẽ không sao cả".

"Lợi nhuận không mờ ám"

Có lẽ nhà viết kịch Eugene O’Neill sẽ không bao giờ có thể biết trước được điều nực cười như vậy và chắc hẳn ông sẽ rất lúng túng. Trong một vở kịch rất nổi tiếng của ông mang tên A moon for the Misbegotten được dựng lại tại Broadway, một nhân vật của ông đã hét lên trong đoạn đầu của hồi 2: "Đả đảo tất cả các tên bạo chúa! Bọn Standard Oil quá quắt!" Và hàng đêm, khán giả vẫn chìm trong tiếng cười mà vở kịch đem lại và đôi khi có những tràng pháo tay tán thưởng. Đầu năm 1974, ba thập kỷ sau khi vở kịch ra đời, người ta lại rộn lên vì một màn kịch khác diễn ra cùng một lúc tại các tòa nhà Quốc hội Mỹ, khi các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ tiến hành các phiên điều trần xoay quanh cuộc khủng hoảng năng lượng và vai trò của các công ty dầu mỏ. Trong tất cả các phiên điều trần này, phiên do Tiểu ban điều tra thường trực của thượng viện mà thượng nghị sĩ Henry Jackson chủ tọa là kịch tính nhất. Henry Jackson khi còn bé được chị gái đặt cho cái tên "Scoop", do ông giống một nhân vật hoạt hình và cho đến nay, cái tên này vẫn được sử dụng mặc dù ông đã leo lên vị trí chủ tịch đầy quyền lực của Ủy ban Nội vụ thuộc thượng viện. Henry cũng tự nhận thấy mình là một đảng viên Dân chủ cứng đầu theo đường lối Truman, một người có đầu óc thực tế và rất thẳng thắn. Cá nhân Tổng thống Nixon sẽ tức giận đối với "chính sách mị dân của Scoop Jackson". Tuy nhiên, một phụ tá của Nhà Trắng đã cố thanh minh cho cơn tức giận của Nixon: "mỗi khi tới gặp Jackson, các đồng nghiệp của chúng tôi trong Ủy ban Nội vụ luôn có cảm giác tự ti vì Jackson luôn thẳng thừng phê bình họ"

Tại phiên điều trần, việc công bố sự kiện này với công chúng là điều không thể tránh khỏi và Jackson đã ghi được một cú ngoạn mục nhất trong sự nghiệp chính trị của mình. Lãnh đạo cao cấp của bảy công ty dầu mỏ lớn nhất bị buộc cùng ngồi vào bàn họp và cùng nhau đưa ra lời tuyên thệ. Sau đó, phái đoàn này đã gặp Jackson và các đồng sự của ông tại một phòng điều trần đông đúc, bị hàng loạt máy quay truyền hình vây quanh. Phái đoàn này phải đối mặt với các câu hỏi về tình hình hoạt động cũng như lợi nhuận của công ty. Nhà lãnh đạo cao cấp của các công ty đó cho dù có chuyên về địa chất học, hóa chất hay quản lý thì cũng không phải là đối thủ ngang tài, ngang sức với Jackson và các thượng nghị sĩ khác khi họ bước chân vào vũ đài chính trị. Họ bước vào phòng họp một cách lạc lõng, cách ly, tự phụ và khó gần.

Thời điểm tổ chức cuộc điều trần cũng được lựa chọn rất khôn khéo, các công ty dầu mỏ đưa ra báo cáo về mức lợi nhuận khổng lồ trong khi lệnh cấm vận dầu lửa của các nước Arập vẫn có hiệu lực. Trong bầu không khí bao trùm là sự thiếu tin cậy, thái độ thù địch, Jackson đưa ra tuyên bố: Tiểu ban của ông sẽ tiến hành điều tra tình trạng thiếu dầu có thật hay không. Ông nói: "Người Mỹ muốn biết cái gọi là khủng hoảng năng lượng có phải chỉ là cái cớ, là cái vỏ để che giấu các mầm mống cạnh tranh giá cả − đó là sự độc lập, rồi từ đó nâng giá, bãi bỏ luật môi trường, gây áp lực buộc chính phủ phải đưa ra các biện pháp trợ cấp thuế mới... Thưa các quý ông, tôi hy vọng chúng tôi sẽ nhận được câu trả lời cho các vấn đề trên đây và cho các câu hỏi khác trước khi chúng ta rời khỏi phòng điều trần ngày hôm nay". Với vẻ đe dọa, ông nói tiếp: "Nếu không, tôi có thể bảo đảm với các ngài, bằng cách này hay cách khác chúng tôi sẽ tìm ra câu trả lời trong những ngày tới".

Sau đó, Jackson và các thượng nghị sĩ quay sang đối chất với lãnh đạo của các công ty dầu mỏ, những người đang tìm mọi cách phòng vệ. Chủ tịch công ty Gulf U.S. phản kháng vụng về: "Thuyết trù liệu là hoàn toàn ngớ ngẩn. Tôi biết mọi người hoang mang trước sự thay đổi của các sự kiện diễn ra tại nước Mỹ". Trong khi đó, phó chủ tịch công ty Texaco lại đưa ra tuyên bố: "Chúng tôi không lừa dối ai và nếu thành viên tiểu ban có bất cứ một bằng chứng nào về hành động lừa dối của Texaco, chúng tôi rất muốn được biết về nó". Và khi vị phó chủ tịch cao cấp của công ty Exxon không thể đưa ra lời giải thích cho khoản tiền cổ tức năm 1973 của công ty, Jackson đã gay gắt phê phán: Ông đúng là "trẻ con".

Các quý ông của các công ty dầu mỏ bẽ mặt, tức tối vì những câu nói của Jackson. Mặc dù những lời đả kích đó có lẽ không sắc nhọn như lời thoại của nhà văn Eugene O’Neill nhưng nó nhận được những tràng pháo tay giòn giã từ nhiều nơi trên khắp cả nước, đặc biệt là từ những người vẫn dành thời gian theo dõi tình hình xăng dầu trong mùa đông năm 1974. Jackson tuyên bố: "Các công ty dầu mỏ phải chịu trách nhiệm về những khoản lợi nhuận không chính đáng". Các nhà lãnh đạo của các công ty dầu mỏ vốn quen với sự tôn sùng, kính trọng giờ tỏ ra bối rối trước những lời công kích dữ dội. Vị chủ tịch nổi tiếng máu lạnh của công ty Gulf sau buổi điều trần phàn nàn: "Chúng tôi đã không có cơ hội để trình bày". Tuy nhiên, bản thân Jackson nhận thức rõ ràng mình đang nói hộ cho toàn bộ người dân Mỹ, bởi ông cảm nhận được những gì người dân Mỹ cảm nhận. Hai trạm xăng gần nhà lúc nào cũng đóng cửa khi ông về nhà. Sau buổi điều trần, ông nói với giọng thất vọng: "Chúng tôi phải nhờ một cậu thanh niên trong văn phòng ra ngoài trong giờ làm việc để tìm một trạm xăng còn mở cửa". Ông cảm thấy bị xúc phạm trước tính kiêu ngạo và tham lam của các công ty dầu mỏ và ông cho rằng các công ty này được chính quyền liên bang ban cho đặc quyền. Jackson đã thành công trong việc biến cụm từ "lợi nhuận bất chính" thành một từ phổ biến trong cả nước và coi đó như một tiêu chuẩn so sánh.

Điều trùng hợp ngẫu nhiên không may mắn cho Exxon khi công ty này công bố lợi nhuận năm 1973, tăng 59% so với năm 1972, vào đúng ngày thứ ba của phiên điều trần. Chủ tịch Exxon, ông Kenneth Jamieson, gượng gạo tuyên bố: "Tôi không thấy điều đó đáng xấu hổ". Tuy nhiên, rất nhiều người nghĩ khác.

Công ty dầu mỏ Standard bị nguyền rủa trong vở kịch của O’Neill đã bị phá sản năm 1911, nhưng ví dụ này xem ra vẫn còn phù hợp. Một lần nữa, John D. Rockefeller lại phủ bóng đen của mình lên toàn bộ mảnh đất dầu lửa bằng các mối câu kết, vận động lôi kéo và các vụ thỏa thuận đen tối. Giờ đây, các công ty dầu mỏ là một trong những tổ chức không được ưa nhất tại khắp nơi trên đất Mỹ cũng như các nước công nghiệp khác. Ví dụ, một số ấn phẩm của Nhật Bản đã đăng tải những bài viết nói về việc các công ty dầu mỏ Mỹ đã lên kế hoạch nhằm tạo ra một cuộc khủng hoảng hòng nâng mức lợi tức. Trên thực tế, đó là sự phản đối kịch liệt từ phía công chúng, là nhu cầu cần được giải trình, kiểm soát các tài liệu kế hoạch chủ chốt tối mật, kiểm soát những tài liệu được gửi cho hội đồng quản trị của một công ty dầu mỏ lớn nhất vào năm 1976. Tài liệu này cảnh báo: "Tương lai của các công ty dầu mỏ tư nhân ngày càng không chắc chắn. Xu hướng những hoạt động đầu mối chuyển giao vào tay chính phủ sẽ còn tiếp tục, trong đó các công ty đóng vai trò là nhà thầu khoán chính thức hay không chính thức. Và người ta dự đoán chính phủ sẽ ngày càng can thiệp sâu hơn (chính thức hay không chính thức) vào phân phối" tại các nước tiêu thụ dầu. Một năm sau đó, năm 1977, một nhà lãnh đạo lâu năm của Shell tại London thậm chí còn đi xa hơn khi phát biểu: "Thật là một nghịch lý khi những ngày này, các mối đe dọa sự ổn định của các công ty dầu mỏ lại đến nhiều từ các nước nhập khẩu dầu hơn là những nước xuất khẩu".

Ông ta đã đưa ra cách nhìn nhận chính xác. Cuối cùng thì điều tồi tệ nhất đã xảy đến đối với các nước sản xuất dầu: Các công ty bị quốc hữu hóa, không còn có quyền sở hữu dầu mỏ, không được định giá hay đặt ra tỷ lệ sản lượng. Về phía các công ty xuất khẩu dầu, giờ đây họ chỉ đóng vai trò như các nhà thầu mà thôi. Lãnh đạo các công ty dầu mỏ luôn tự hỏi: đây có phải là lúc chính phủ các nước nhập khẩu dầu đánh vào các công ty hay không? Một vài nước công nghiệp đã tiến hành các cuộc điều tra chống độc quyền đối với các công ty dầu mỏ. Rủi ro về mặt chính trị (nếu như điều này được xem xét trên khía cạnh của thời đại quản lý cấp cao) được chuyển sang các nước công nghiệp, đặc biệt là Mỹ. Các khoản chiết khấu vốn góp phần làm giảm thuế trong lĩnh vực sản xuất dầu giờ đã bị cắt giảm phần lớn. Khấu trừ thuế nước ngoài vốn là "mẹo quảng cáo vàng" được áp dụng lên các sản phẩm sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm tạo điều kiện phát triển ngành dầu lửa tại Venezuela và các nước Trung Đông, đồng thời bảo vệ vị thế của Mỹ ở hai vùng này, giờ cũng trong tình cảnh tương tự nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Quốc hội Mỹ cũng đang nỗ lực hạ giá dầu, thậm chí còn gây áp lực chính trị mạnh mẽ nhằm giảm giá khí đốt tự nhiên. Không chỉ vậy, các công ty dầu mỏ còn phải đối mặt với nguy cơ "bị tước bỏ", nghĩa là các tập đoàn đa ngành khép kín sẽ bị chia tách thành các công ty riêng biệt cho từng phân đoạn công việc, ngành nghề: khai thác dầu thô và sản xuất khí đốt, vận chuyển, chế xuất và marketing. Về điểm này, 45 trong số 100 thượng nghị sĩ bỏ phiếu tán thành. Ý kiến của ngành dầu lửa đối với động thái này được tổng kết trong một thuật ngữ khác mà họ thấy phù hợp hơn, đó là "sự chia cắt".

Tiếp đến là hàng loạt các vụ công kích vào cái gọi là "lợi nhuận mờ ám" của các công ty dầu mỏ. Thực tế nào ẩn đằng sau vấn đề đang được tranh cãi và bất bình từ phía dư luận? Lợi nhuận của các công ty dầu mỏ hàng đầu gần như không thay đổi trong suốt 5 năm trước năm 1972, bất chấp cầu hàng hóa này tăng trưởng bùng nổ. Tuy nhiên, sau đó lợi nhuận đột nhiên tăng lên nhanh chóng từ 6,9 tỷ đô-la năm 1972 lên 11,7 tỷ đô-la năm 1973 và đạt kỷ lục 16,4 tỷ đô-la năm 1974. Có một số nguyên nhân giải thích cho hiện tượng này. Mức tăng trưởng đột biến này chủ yếu xuất phát từ các hoạt động ở nước ngoài. Do các nước xuất khẩu dầu đẩy giá lên cao nên các công ty dầu mỏ có quyền tự do tăng giá đối với lượng dầu họ dự trữ bên ngoài nước Mỹ. Thêm vào đó, giá trị và giá thị trường của lượng dầu dự trữ của các công ty này ở Mỹ cũng tăng. Hơn nữa, các công ty này đã mua dầu với giá thấp từ trước đợt tăng giá (2,9 đô-la) để dự trữ, rồi sau đó bán ra với giá 11,65 đô-la, nhờ đó họ kiếm được khoản lãi khổng lồ. Lĩnh vực hóa dầu của các công ty dầu mỏ cũng hoạt động tốt, một phần là nhờ đồng đô-la yếu. Nhưng sau đó, lợi nhuận của các công ty dầu mỏ hàng đầu này lại giảm xuống 11,5 tỷ đô-la năm 1975, thấp hơn mức năm 1973. Một lần nữa, một số nguyên nhân lại được đưa ra. Tổng cầu dầu lửa giảm do tác động của thời kỳ Suy thoái kinh tế. Nhận thấy lợi nhuận lớn mà các công ty kiếm được từ dầu, các nước xuất khẩu dầu đã nhanh chóng tăng thuế và tăng tiền thuê khai thác giếng dầu bằng cách gắn tiền thuê với sản lượng dầu khai thác được chứ không phải với công ty. Năm này có một vài ưu đãi về thuế bị xóa bỏ. Trong vài năm tiếp theo, lợi nhuận lại tiếp tục tăng và đạt 15 tỷ đô-la năm 1978. Điều này cho thấy mức lợi nhuận đang bám đuổi mức lạm phát. Xét về tổng thể, lợi nhuận của các công ty dầu mỏ hàng đầu này thật sự khổng lồ, nhưng nếu xét trên khía cạnh tỷ suất lợi nhuận thì mức tỷ suất của các công ty dầu mỏ còn thấp hơn mức trung bình của toàn bộ các ngành công nghiệp Mỹ, chỉ trừ năm 1974.

Một khía cạnh khác trong cơ cấu lợi nhuận cũng rất đáng chú ý. Lợi nhuận chủ yếu tập trung vào các ngành kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận, là sản xuất dầu thô và khí tự nhiên. Giá trị sản lượng dầu dự trữ mà các công ty nắm trong tay tại Mỹ và biển Bắc tăng lên nhờ tăng giá dầu. Các ngành phụ trợ như nhà máy lọc dầu, tàu chở dầu, trạm xăng, v.v… được hình thành từ trước năm 1973 với kỳ vọng mức cầu về dầu sẽ tăng trưởng 7-8% một năm. Tuy nhiên, cầu về dầu lửa trên thực tế lại thấp hơn con số đó rất nhiều, do vậy, công suất trong các ngành phụ trợ cũng không đạt mức đề ra. Một phần ba đội tàu chở dầu ở trong tình trạng ngừng sử dụng. Tình trạng vượt quá công suất cộng với thất thoát tài sản dầu thô tại các nước Trung Đông khiến các tập đoàn dầu mỏ quốc tế đặt ra một câu hỏi về nguyên nhân hình thành cũng như giá trị của hệ thống sản xuất dầu thô và khí tự nhiên quy mô lớn mà họ đã cất công xây dựng ở châu Âu vào những năm 1950, 1960 để mua lại dầu từ các nước Trung Đông − lượng dầu mà bây giờ đang bị tước khỏi tay họ. Chính sách năng lượng của Mỹ: "Sự tra tấn dằng dai"

Bất chấp sự đồng thuận mạnh mẽ đáng ngạc nhiên cũng như sự kế tục giữa các đời Tổng thống Nixon, Ford, Carter trong vấn đề chính sách năng lượng, cuối cùng, vẫn chưa có một bản thỏa thuận nào được hình thành trong đời sống chính trị nước Mỹ. Trái lại, vấn đề năng lượng trong nước lại được đánh dấu bằng các cuộc tranh luận nảy lửa, chia rẽ, quyết liệt, rối loạn xoay quanh vấn đề quản lý giá dầu, các thủ đoạn và chính sách của các công ty dầu mỏ. Tổng thống Nixon từ chức vào tháng 8 năm 1974, nhưng sự sụp đổ của chính phủ sau vụ Watergate đã gây ra một cuộc khủng hoảng lòng tin trong dân chúng đối với chính phủ và hàng loạt các nghi ngờ về cuộc khủng hoảng năng lượng.

dau mo tien bac va quyen luc ky 33
Dầu và năng lượng trở thành vấn đề nóng nhất trong đời sống chính trị nước Mỹ vào những năm 70 thế kỷ XX

Dầu và năng lượng đang trở thành vấn đề nóng nhất trong đời sống chính trị nước Mỹ, trở thành một mối đe dọa cho lối sống của người Mỹ. Hãy nhìn lại tháng 8 năm 1971, Nixon đã áp dụng các biện pháp kiểm soát giá cả lên toàn bộ nền kinh tế nhằm nỗ lực dập tắt lạm phát (mà sau đó mức lạm phát đã tăng cao không thể chấp nhận được, ở mức 5%). Tất cả các biện pháp này đều được áp dụng cho đến năm 1974, trừ lĩnh vực dầu lửa. Thay vào đó, các quan điểm chính trị và các áp lực khắc nghiệt về thời gian đã dựng nên một hệ thống kiểu Rubee Goldberg đáng sợ về kiểm soát giá, trao quyền và phân bổ, vốn là những điều đã dẫn tới sự ra đời của chương trình nhập khẩu dầu bắt buộc năm 1960, mà nếu so sánh thì nó đơn giản giống một bài thơ haiku Nhật Bản.

Dư luận muốn Washington hành động, cụ thể là quay về hệ thống giá thấp trước đây nhưng đồng thời phải bảo đảm đủ lượng cung tương ứng. Washington liên tục đưa ra các quyết định khiến thị trường trở nên rối loạn, méo mó bởi không ai có thể đoán được tác động mà nó mang lại. Một nhà điều chỉnh chính sách trong chính phủ đã phải thốt lên: "Bất cứ vấn đề nào mà chính phủ cố gắng giải quyết thì dường như lại làm nảy sinh thêm hai vấn đề nữa". Tuy nhiên, những ai có thể chỉ ra cách thức làm việc với hệ thống thì sẽ làm rất tốt. Ví dụ, nếu chính phủ cho phép thành lập các công ty cung cấp dầu thô với quy mô lớn, nhiều ngành nghề thì hàng loạt các công ty chế xuất dầu lửa sẽ bị giải thể, và thay vào đó là sự trở lại của một nhúm nhà chế xuất hoạt động kém hiệu quả đã gần như biến mất kể từ sau đợt bùng nổ dầu lửa ở phía đông Texas vào đầu những năm 1930. Chính sách khác nhau đưa đến rất nhiều kiến nghị vô ích, các phiên họp quốc hội không có hồi kết. Một học giả đã viết: "Đối với ngành công nghiệp dầu lửa, danh sách của liên bang còn quan trọng hơn báo cáo của các nhà địa chất học". Nếu xét trên khía cạnh vốn đầu tư ngắn hạn, vốn đầu tư có tăng lên, tuy nhiên nếu xét tính không hiệu quả thì chi phí kinh doanh tăng đến con số khổng lồ, thị trường rối loạn, mọi nỗ lực đều đi chệch hướng, các nguồn lực, thời gian được phân bổ không hợp lý. Gần đây, Cơ quan năng lượng liên bang đã yêu cầu 200.000 cơ quan thuộc ngành công nghiệp báo cáo về mức cầu năng lượng của cơ quan mình và thu được con số ước lượng khoảng 5 triệu giờ hàng năm. Tính đến giữa những năm 1970, chi phí trực tiếp cho hệ thống điều tiết đã lên tới vài tỷ đô-la, con số này được tính dựa trên chi phí mà các cơ quan của chính phủ và ngành công nghiệp chi dùng vào các vấn đề điều phối. Các chiến dịch điều tiết rộng khắp cả nước làm giàu cho đất nước thì ít mà gây ra rối loạn cho hệ thống chính trị quốc gia thì nhiều. Tuy nhiên, đó chỉ là những vấn đề của thời đại.

Trong khi đó, còn nhiều việc hệ trọng cần phải giải quyết. Tháng 1 năm 1975, Tổng thống Gerald Ford đã kế tục Dự án độc lập của Tổng thống Nixon tiền nhiệm, trong đó đề nghị cấp phép cho một dự án kéo dài 10 năm, nhằm xây dựng 200 nhà máy điện hạt nhân, 250 mỏ than lớn, 150 nhà máy nhiệt điện lớn sử dụng than, 30 nhà máy lọc dầu quy mô lớn, và 20 nhà máy chất đốt tổng hợp. Không lâu sau, phó Tổng thống Nelson Rockefeller, cháu trai của người đàn ông từng là thạch trụ của ngành dầu mỏ, giành được một chương trình trợ cấp các nhiên liệu tổng hợp và các dự án năng lượng có chi phí cao khác trị giá 100 tỷ đô-la mà các thị trường thương mại không thể cung cấp được. Các đối thủ của ông đánh vào chi phí của các dự án này và cuối cùng các sáng kiến của Rockefeller đều trở nên vô ích. Tuy nhiên, thời kỳ Tổng thống Nixon và Ford cầm quyền có hai thành tựu vô cùng quan trọng. Ngay trong thời kỳ hậu cấm vận, chính phủ đã bật đèn xanh cho việc xây dựng đường ống dẫn dầu xuyên Alaska với tổng chi phí lên tới 10 tỷ đô-la. Các nhà hoạt động môi trường nhận định các cuộc trì hoãn và cân nhắc, xem xét lại đã mang lại những đường dẫn dầu an toàn và thân thiện với môi trường. Đường ống dẫn dầu xuyên Alaska (TAPS) được coi là đóng góp quan trọng bậc nhất vào hệ thống cung cấp năng lượng của Mỹ kể từ khi Joiner Cha tìm ra giếng dầu vùng Đông Texas vào những năm 1930.

Thành tựu đáng chú ý thứ hai là việc thiết lập tiêu chuẩn hiệu suất nhiên liệu cho ngành công nghiệp ôtô. Theo tiêu chuẩn mới, hiệu suất nhiên liệu trung bình cho loại ôtô mới sẽ tăng lên gấp đôi trong vòng 10 năm, từ mức tiêu thụ nhiên liệu hiện tại là 13 dặm/gallon lên 27,5 dặm/gallon. Vào thời điểm đó, cứ 7 thùng dầu được sử dụng trên toàn thế giới mỗi ngày thì có một thùng dành cho các phương tiện vận chuyển hoạt động trên các xa lộ của Mỹ. Với thực tế đó, thành tựu này không những góp phần quan trọng vào việc cân bằng dầu lửa của Mỹ mà còn của toàn thế giới. Từ đó, yêu cầu về tiêu chuẩn hiệu suất nhiên liệu được đưa vào luật. Luật pháp cũng thiết lập yêu cầu dự trữ năng lượng chiến lược. Đây là sáng kiến của Eisenhower đề xuất sau cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 và vua Iran đã cố bán sáng kiến này cho Mỹ năm 1969. Đó là một kế hoạch tuyệt vời, mức dự trữ đó có thể cung cấp đủ nhu cầu năng lượng để đối phó với bất kỳ sự gián đoạn cung cấp năng lượng nào. Tuy nhiên trên thực tế, tốc độ hình thành tỷ lệ dự trữ năng lượng theo kế hoạch lại vô cùng chậm chạp.

Năm 1977, Jimmy Carter trở thành Tổng thống Mỹ. Ông tiến hành chiến dịch tranh cử với vai trò là một người ngoài chính phủ, người sẽ khôi phục lại các tiêu chuẩn đạo đức cho hệ thống chính trị đã bị bôi nhọ, sụp đổ của nước Mỹ sau sự kiện Watergate. Jimmy Carter dành nhiều sự quan tâm của tới vấn đề năng lượng từ nhiều năm trước. Ông từng làm thủy thủ tàu ngầm trong lực lượng hải quân Mỹ. Ông luôn ghi nhớ lời cảnh báo của Tổng tư lệnh Hyman Rickover, cha đẻ của tàu ngầm nguyên tử, rằng loài người đang làm cạn kiệt dần nguồn cung cấp dầu tự nhiên. Trong suốt chiến dịch tranh cử, Carter hứa sẽ cho ra đời chính sách năng lượng quốc gia trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhậm chức và ông đã rất nỗ lực giữ lời hứa với toàn thể dân Mỹ.

Tổng thống Carter đã giao việc này cho tiến sĩ kinh tế James Schlesinger, người nổi tiếng với tư cách là chuyên gia an ninh kinh tế quốc gia. Schlesinger đã kết hợp khả năng phân tích và tinh thần trách nhiệm cao với "nhiệt huyết trí tuệ và nhiệt tình đạo đức". Ông luôn nhận thức rõ ràng cái gì đúng và khi điều đó trở thành chính sách quản lý đất nước thì ông cũng không ngần ngại trình bày nó trước công chúng. Schlesinger không phải là người dễ dàng nhân nhượng, thậm chí ông còn có thể thử thách tính kiên nhẫn của các đối thủ. Ông thường trình bày những nhận định của mình chậm rãi, rõ ràng, rành mạch, điều này khiến người khác có cảm giác những thính giả của ông (có thể là các vị tướng, thượng nghị sĩ hay thậm chí cả tổng thống) giống như những sinh viên năm thứ nhất và họ không thể hiểu nổi những định lý đã rất rõ ràng.

Tổng thống Richard Nixon đã cất nhắc Schlesinger từ tập đoàn Rand về Cục Ngân sách, và sau đó vào vị trí chủ tịch Ủy ban năng lượng nguyên tử, rồi trở thành giám đốc Cơ quan tình báo trung ương. Không lâu sau, Schlesinger được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng. Tuy nhiên, vào một buổi sáng thứ bảy hoặc chủ nhật đẹp trời, người ta thấy Schlesinger xuất hiện ở vùng ngoại ô Washington với chiếc ống nhòm trong tay. Tất nhiên, đó không phải chuyến đi công cán, tìm kiếm người Nga trên đất Mỹ mà là chuyến đi nghỉ theo đuổi thú vui quan sát chim, điều mà ông vô cùng yêu thích. Vai trò của ông trong Bộ Quốc phòng chấm dứt dưới thời Gerald Ford do ông đã phản đối chính sách ôn hòa của Kissinger cũng như thái độ của nước Mỹ về trận đánh bi thảm cuối cùng tại miền nam Việt Nam, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn chính quyền tay sai của Mỹ tại Sài Gòn. Schlesinger đã thể hiện quan điểm của ông hết sức rõ ràng trước các cuộc họp nội các. Sau Hội nghị dân chủ quốc gia năm 1976, Jimmy Carter đã mời Schlesinger tới nhà riêng của mình tại Plains, bang Georgia để luận bàn về tình hình chính trị và các chính sách. Schlesinger là bạn thân của thượng nghị sĩ Henry Jackson. Khi vấn đề năng lượng nổ ra, Henry Jackson là người quan trọng nhất của nước Mỹ, đồng thời cũng là đối thủ của Carter trong cuộc tranh cử. Sau cuộc bầu cử, Jackson yêu cầu Carter đưa Schlesinger vào Bộ Năng lượng trong chính quyền mới. Carter rất vui mừng về việc này. Nguyên nhân không chỉ do Tổng thống Carter rất ấn tượng với Schlesinger mà ngay bản thân Schlesinger về sau cũng nhận định: "Sẽ thuận lợi hơn rất nhiều nếu như chủ tịch Ủy ban năng lượng thượng viện lại là bạn của nguyên Bộ trưởng Năng lượng".

Trong những tuần đầu tiên của chính quyền Carter, năng lượng luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Carter đã đọc báo cáo của CIA được soạn thảo vào cuối năm 1976 dự đoán sản lượng dầu sẽ thiếu hụt trong tương lai. Ông thấy báo cáo này vô cùng hấp dẫn và rất thuyết phục; nó góp phần thúc đẩy tổng thống thực hiện con đường mà mình đã lựa chọn. Giống như Carter, Schlesinger cũng cho rằng ngành công nghiệp sử dụng nhiên liệu hydrocarbon sẽ hứng chịu áp lực phát triển và gây ra những vấn đề nguy hiểm cho chính trị và kinh tế Mỹ. Với vai trò là một nhà kinh tế, để cân bằng cung cầu dầu lửa trên thị trường, Schlesinger không cho rằng lượng cung dầu sẽ tăng mà thay vào đó là sự tăng giá dầu. Cả hai người đàn ông này đều chia sẻ mối lo ngại về các chính sách ngoại giao ngày càng căng thẳng đối với thị trường dầu mỏ. Trong cuốn hồi ký của mình, Tổng thống Carter viết rằng rất nhiều người Mỹ đặc biệt là tổng thống và James Schlesinger đã "rất phẫn nộ trước một thực tế là hầu hết các quốc gia hàng đầu trên thế giới lại bị giật dây bởi một vài quốc gia nhỏ bé vùng sa mạc".

Năm 1972, ngay trước cuộc khủng hoảng, khi Schlesinger vẫn còn là chủ tịch Ủy ban năng lượng nguyên tử, ông đã bày tỏ một ý kiến mà lúc đó bị coi là dị thường: nước Mỹ nên tiến hành các biện pháp bảo tồn năng lượng trên phương diện an ninh quốc gia, chính sách kinh tế đối ngoại và tăng cường bảo vệ môi trường. Ông từng phát biểu: "Chúng ta nên làm điều gì tốt đẹp hơn thay vì sử dụng những chiếc ôtô chạy 10 dặm tiêu tốn 1 gallon xăng hay những tòa nhà được cách nhiệt trong mát ngoài nóng". Trên thực tế, Schlesinger cũng đã khuyên các nhà hoạt động môi trường nên chuẩn bị trước giả định "nhu cầu về năng lượng dù ít dù nhiều cũng sẽ tăng lên tự nhiên". Và năm 1977, ông nhận định: bảo tồn là trung tâm của bất kỳ chính sách năng lượng nào. Thật không may, chỉ có Schlesinger mới thấy rõ những điều đó.

Chính quyền mới vẫn khẳng định lời hứa công khai toàn bộ chương trình năng lượng trong vòng 90 ngày cầm quyền đầu tiên. Lời hứa này quá nóng vội bởi thời gian 90 ngày không đủ để xây dựng sự đồng tâm nhất trí tối thiểu và mối quan hệ công việc với chủ tịch các ủy ban trong quốc hội, cũng như tạo dựng một cơ sở vững chắc và rộng rãi giữa các nghị sĩ quan tâm tới vấn đề trên, thậm chí ngay cả nội bộ của chính quyền mới. Sự phát triển của chương trình được giữ bí mật bằng mọi cách có thể. Hơn nữa, Schlesinger đã dùng một phần ba trong thời hạn 90 ngày vào việc dỡ bỏ luật khí tự nhiên trong điều kiện khẩn cấp nhằm giảm tình trạng thiếu hụt dầu lửa vào hai năm 1976-1977, và quãng thời gian còn lại dùng để xây dựng pháp luật, làm cơ sở hình thành Bộ Năng lượng. Với hàng loạt vấn đề cần giải quyết, Schlesinger có nhã ý yêu cầu Tổng thống Carter cân nhắc nới lỏng cam kết 90 ngày, nhưng tổng thống khẳng định chắc chắn: "Tôi đã nói là 90 ngày. Tôi đã cam kết trước toàn dân Mỹ và tôi sẽ giữ lời hứa đó".

Tuy nhiên, bản thân Tổng thống Carter cũng không mấy hài lòng với chương trình năng lượng mà Schlesinger thực hiện. Tổng thống đã góp ý với Schlesinger: "Vấn đề cơ bản nhưng hóc búa nhất của chúng ta ở đây là làm thế nào để nâng giá nguồn năng lượng khan hiếm này mà vẫn làm giảm tối đa ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ thống kinh tế, đồng thời tạo ra nhiều vốn hơn để gánh được sức ép tài chính". Trên đường về nhà, tổng thống than vãn thêm: "Tôi không hài lòng với cách tiếp cận của ngài, nó quá phức tạp. Tôi thật sự không thể hiểu được nó".

Chính sách dự định được công bố vào đầu tháng tư trong bài diễn văn quan trọng của tổng thống. Ngày chủ nhật trước đó, Schlesinger xuất hiện trong một chương trình phỏng vấn trên truyền hình. Tại đây, trong lúc cố tìm phép ẩn dụ để diễn tả tầm quan trọng của những thử thách trong vấn đề năng lượng, Schlesinger đã trích câu nói của William James − "sự tương tự chiến tranh về đạo đức". Câu nói đó đã làm thức tỉnh người xem truyền hình ngày hôm ấy, trong đó có cả Tổng thống Jimmy Carter. Tổng thống đã rất ấn tượng với câu nói này và còn sử dụng nó trong bài phát biểu của mình. Tháng 4 năm 1977, mặc một chiếc áo len, Tổng thống Carter đã xuất hiện bên lò sưởi trong cuộc nói chuyện với cả nước Mỹ, giới thiệu chương trình năng lượng của mình như "sự tương tự chiến tranh về đạo đức". Người ta biết nhiều hơn đến chương trình năng lượng dưới cái tên này; còn đối với những người phản đối, họ thường gọi chương trình này với cái tên "MEOW" (ghép các chữ cái đầu của cụm từ "the Moral Equivalent Of War).

Chương trình năng lượng của Tổng thống Carter gồm hàng loạt các sáng kiến nhằm định hình lại vai trò ngành năng lượng của nước Mỹ, đưa tính kinh tế vào việc hình thành giá, giảm nhu cầu đối với dầu nhập khẩu. Đối với Schlesinger, vấn đề ưu tiên hàng đầu là tìm cách tăng giá dầu trong nước, vốn đang được kiểm soát về giá, sao cho bằng mức giá trên thị trường thế giới, do đó người tiêu dùng có thể phản ứng chính xác để điều chỉnh lại những dấu hiệu về giá. Hệ thống giá hiện tại đã trộn lẫn giá dầu trong nước được kiểm soát với giá dầu nhập khẩu cao để cho ra giá dầu cuối cùng bán trong nước, điều này cũng có nghĩa là nhà nước đang trợ cấp cho dầu nhập khẩu. Chính vì thế, chương trình năng lượng của Carter đã chấm dứt tình trạng kiểm soát giá dầu sản xuất trong nước thông qua biện pháp "cân bằng thuế đối với dầu thô". Việc làm này cũng mang nhiều điều trớ trêu, bởi chính chính quyền Đảng Cộng hòa của cựu Tổng thống Nixon đã ban hành các biện pháp quản lý giá vào tháng 8 năm 1971 thì nay chính quyền Đảng Dân chủ lại đang nỗ lực dỡ bỏ nó. Tổng thống Carter và người cộng sự Schlesinger cũng đã nỗ lực tìm biện pháp khôn khéo để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bị trói buộc do các biện pháp kiểm soát giá khí đốt tự nhiên gây ra. Chính quyền mới có nhiều biện pháp mạnh tay hơn các chính quyền tiền nhiệm trong việc khẳng định quyết tâm bảo tồn năng lượng và sử dụng nguồn năng lượng than. Chính phủ cũng cho phép cạnh tranh nhẹ trong lĩnh vực điện lực, đồng thời khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng thay thế và các nguồn năng lượng mới, trong đó có năng lượng mặt trời.

Chính quyền mới vận hành như thể đang có một cuộc khủng hoảng và điều này sẽ củng cố lại đất nước. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa lại không đồng quan điểm, theo họ, không có một cuộc khủng hoảng nào đang diễn ra trên đất Mỹ và chính vì vậy, trong khi nỗ lực xúc tiến chương trình, Tổng thống Carter đã vấp phải hàng loạt ý kiến của các tầng lớp, tổ chức trong xã hội như những người theo chủ nghĩa tự do, phe bảo thủ, các nhà sản xuất dầu, nhóm người tiêu dùng, các công ty sản xuất ôtô, các nhà hoạt động ủng hộ và phản đối điện hạt nhân, các nhà sản xuất than, các công ty dịch vụ công cộng, các nhà hoạt động môi trường − tất cả các tổ chức này đều mang đến các chương trình nghị sự đối lập nhau. Họ đã cho tổng thống thấy cách thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống xã hội Mỹ. Tuy nhiên, đối với Schlesinger, vấn đề rất rõ ràng. Nước Mỹ đang phải đối mặt với "vấn đề mang tính quốc gia ăn sâu bám rễ". Ông không cho rằng thế giới đang cạn kiệt dầu mỏ, mà thay vào đó, ông nghĩ rằng tốc độ tiêu dùng sản phẩm dầu lửa phát triển nhanh chóng đã hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh tế vào những năm 1950 và 1960 không thể duy trì được nữa. Sau này, ông giải thích: "Chúng ta cần phải chấm dứt tình trạng phụ thuộc vào dầu thô để phát triển kinh tế. Chúng ta phải dứt bỏ sự lệ thuộc đó". Do quá tự tin vào những phân tích kín kẽ, Schlesinger đã không được chuẩn bị để đối phó với những trận bão tranh luận gay gắt và những trận chiến ác liệt tiếp theo. Tham dự hết phiên điều trần Quốc hội này đến phiên khác, Schlesinger chợt nhớ lại lời khuyên của một vị tướng già trong Ủy ban năng lượng nguyên tử khi ông vẫn còn giữ chức chủ tịch của ủy ban này: "Có ba kiểu dối trá: dối trá thông thường, dối trá đáng nguyền rủa và dối trá về năng lượng". Sau này, Schlesinger tâm sự: "Tôi mang trong mình tâm trạng như trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nghĩa là nếu như tổng thống nói ra điều gì là mối quan tâm chung của đất nước thì tôi cho rằng tổng thống sẽ nhận được nhiều phản hồi mang tính xây dựng hơn những gì chúng ta đã chứng kiến ở đây. Tuy nhiên, đã có sự thay đổi. Với tư cách Bộ trưởng Quốc phòng, tôi cho rằng những ai không phản đối bạn sẽ là những người theo bạn. Tại đây trong vấn đề năng lượng này lại xuất hiện các cuộc tranh cãi giữa các nhóm lợi ích khác nhau mà bạn không thể nào hòa hợp họ lại và điều này gây mệt mỏi".

Trong tất cả các vấn đề năng lượng, khí đốt tự nhiên là vấn đề gây nhiều tranh cãi và khó giải quyết nhất. Chính quyền Carter đã bước vào cuộc đấu tranh chính trị mang màu sắc thần học diễn ra suốt nhiều thập kỷ xung quanh vấn đề có nên để chính phủ quản lý giá khí đốt tự nhiên hay để thị trường quyết định. Cuộc tranh luận mà Schlesinger phải chứng kiến trong suốt các hội nghị thượng nghị viện về khí đốt tự nhiên đã diễn ra vô cùng gay gắt. Ông phát biểu: "Bây giờ tôi đã hiểu địa ngục là thế nào. Địa ngục chính là các phiên họp liên tục, không có hồi kết xoay quanh vấn đề khí đốt tự nhiên". Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, một bản thỏa hiệp cho dù là rắc rối, phức tạp đã ra đời, theo đó, giá khí đốt tự nhiên được phép tăng trong một biên độ giới hạn nhất định, một số loại khí đang bị kiểm soát sẽ được chính phủ bãi bỏ lệnh kiểm soát, trong khi một số loại khí khác không bị kiểm soát sẽ bị kiểm soát trở lại trong một thời gian, rồi sau đó lại không bị kiểm soát nữa. Cũng theo bản thỏa hiệp thì một loạt các danh mục giá khác nhau đã được đưa ra cùng một loại hàng mà trong thành phần đều có các phân tử hóa học tiêu chuẩn giống nhau gồm 1 nguyên tử carbon và 4 nguyên tử hydrogen. Bất chấp các cuộc chiến chính trị khốc liệt, sự kiệt quệ không thể tránh khỏi của các đảng phái chính trị, chính quyền Carter vẫn đạt được hàng loạt ý định quan trọng trên mặt trận năng lượng. Trong buổi nói chuyện với nhân dân thành phố London, Schlesinger đã phát biểu: "Luật năng lượng quốc gia là một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Nó điều chỉnh nhu cầu của con người trước những nguồn tài nguyên sẵn có. Do những hạn chế về tự nhiên cũng như về chính trị ở các nguồn cung ứng dầu lửa trong tương lai, chúng ta phải chủ động thúc đẩy khúc ngoặt của con đường". Tuy nhiên khi nhìn lại gần hai năm đấu tranh cho lời kêu gọi hành động ban đầu của Tổng thống Carter, Schlesinger không thể làm gì khác ngoài việc buồn bã đứng nhìn. Ông nói: "Sự phản ứng [trong xã hội] giống với một kiểu tra tấn dai dẳng hơn là một sự tương tự chiến tranh về đạo đức của William James".

Giai đoạn bùng nổ

Vào cuối năm 1978, chính sách hậu cấm vận ở các nước như Mỹ đã dần mất đi tầm ảnh hưởng. Tuy nhiên, vẫn còn một phản ứng xảy ra gần như tức thời đối với lệnh cấm vận. Vật giá leo thang, kỳ vọng tương lai tăng, các luồng tiền mặt nới rộng, sự hào hứng của các nhà đầu tư, tất cả những điều này kết hợp lại đã thổi bùng lên đợt săn lùng toàn cầu tìm dầu mỏ. Khi được hỏi về đặc điểm tiêu biểu trong sự cuồng loạn của toàn thế giới, phó giám đốc khai thác của tập đoàn Exxon đã gói gọn trong một câu: "Nó thật hoang dã". Những công việc khai thác kinh doanh đáng thất vọng suốt những năm 1972 thì nay đang hoạt động hết công suất, và chi phí cho tất cả mọi thứ, từ giàn khoan bán − ngầm đến tàu khoan định vị đều tăng gấp đôi so với năm 1973.

Thêm vào đó, luồng vốn lại được tái đầu tư theo phương thức vô cùng chắc chắn. Điều cần phải ghi nhớ số một là phải bằng mọi giá tránh tình trạng quốc hữu hóa tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Trong bất cứ tình huống nào, do tình trạng quốc hữu hóa mà công việc kinh doanh, khai thác dầu lửa ở hầu hết các quốc gia OPEC đều bị tịch biên, và có một phỏng đoán tương đối chắc chắn rằng, nếu có một công ty kinh doanh thành công tại một nước đang phát triển thì kết quả của công việc làm ăn sẽ bị tịch thu trước khi những người chủ được hưởng, cái mà công ty anh ta nhận được còn lại chỉ là những thứ lặt vặt, linh tinh. Chính vì thế, ở một mức độ nhất định, các công ty đã tái đầu tư khoản vốn thăm dò khai thác dầu khí của mình vào các nước công nghiệp thuộc thế giới phương Tây như Mỹ − bất chấp những tín hiệu bi quan ngày càng tăng về triển vọng dầu lửa ở Mỹ, Canada, Anh, các lãnh thổ thuộc Na Uy tại biển Bắc. Năm 1975, công ty Gulf tiến hành một đợt tổng kết ngân sách toàn cầu và mỗi một đồng đô-la chưa được đầu tư sẽ lặng lẽ rút khỏi các nước thế giới thứ ba rồi chuyển ngược về Nam Mỹ và vùng biển Bắc. Năm 1976, tập đoàn Royal Dutch/Shell của Hà Lan tập trung 80% chi phí sản xuất tại các quốc gia trên thế giới trừ Mỹ vào các nước khu vực biển Bắc. Lãnh đạo tập đoàn Exxon phát biểu: "Sau năm 1973 và tình trạng quốc hữu hóa tại các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba, chúng tôi buộc phải quyết định săn thỏ trên một cánh đồng khác và chúng tôi đã chuyển tới một nơi mà mình có thể nhận được những khoản lợi nhuận trên đồng vốn bỏ ra, nhận được quyền làm chủ những thùng dầu".

Các công ty dầu mỏ cũng bắt đầu đa dạng hóa sang những ngành kinh doanh hoàn toàn mới. Thật khó có thể biện minh rằng các công ty kêu gọi chính phủ dỡ bỏ các biện pháp quản lý giá là do họ cần tất cả các khoản tiền có thể kiếm được để đầu tư vào ngành năng lượng. Tuy nhiên, sự đa dạng hóa này lại phản ánh một vấn đề về môi trường chính trị và kinh doanh của các công ty dầu mỏ đang ngày càng trở nên chật hẹp, khắc nghiệt và bị các quy định, sự can thiệp của chính phủ kìm nén. Thêm vào đó, một điều còn đáng lo sợ hơn, nếu nguồn tài nguyên dầu mỏ bị khai thác cạn kiệt thì sự tồn tại của các công ty dầu mỏ và ngành dầu lửa chỉ còn đếm từng ngày. Các số liệu sau đây sẽ chứng minh điều đó. Trong vòng 6 năm, từ năm 1970 đến năm 1976, trữ lượng dầu của Mỹ giảm 27% và trữ lượng khí đốt giảm 24%. Dường như lượng dầu dự trữ vốn dồi dào của Mỹ đang có nguy cơ sụt giảm. Mặc dù lượng tiền đầu tư thực tế vào các ngành ngoài năng lượng tương đối nhỏ so với thực lực tổng tài chính của các công ty dầu mỏ, nhưng đó cũng là lượng tiền cam kết tương đối lớn. Tập đoàn dầu mỏ Mobil đã mua lại hệ thống cửa hàng bách hóa Montgomery Ward, Exxon phát triển theo hướng văn phòng tự động hóa, ARCO liên kết với ngành sản xuất đồng. Nhưng không có sự kiện nào lại gây khuấy động và đáng buồn cười bằng vụ tập đoàn dầu mỏ Gulf mua lại Ringling Bros. và rạp xiếc Barnum & Bailey. Hơn bất cứ điều gì khác, sự việc trên chứng minh một điều là kỷ nguyên mới đang trở nên rối tung do đế chế dầu lửa OPEC, giá dầu leo thang, sự hỗn loạn, các cuộc tranh luận gay gắt, cuộc chiến năng lượng trong diễn đàn chính trị Washington hóa ra cũng chỉ là một màn xiếc mà thôi. Nguồn cung cấp dầu lửa mới: Alaska và Mexico

Trong suốt những năm 1970, các nước OPEC tiếp tục thống trị thị trường dầu lửa thế giới, năm 1973 khối này nắm 65% tổng sản lượng dầu của thế giới tự do và năm 1978 con số này là 62%. Mặc dù chưa có biểu hiện rõ ràng nhưng sự thống trị của OPEC bắt đầu suy giảm. Động cơ giá dầu và an ninh năng lượng đã thúc đẩy các nước tìm kiếm nguồn dầu lửa bên ngoài OPEC, và các nguồn cung cấp dầu lửa mới sẽ làm thay đổi hệ thống cung cấp dầu lửa trên toàn thế giới. Trong khi hoạt động tìm kiếm và khai thác dầu lửa đang diễn ra rầm rộ khắp nơi trên thế giới thì ba vùng lãnh thổ mới là Alaska, Mexico và Biển Bắc được nhiều người chú ý nhất. Trớ trêu thay, người ta đã thấy được tiềm năng dồi dào của ba vùng đất này từ trước thời điểm giá dầu leo thang năm 1973 nhưng chưa tập trung khai thác và phát triển vì hàng loạt các lý do chính trị, kinh tế, sự phản đối về môi trường, rào cản kỹ thuật hay những vấn đề đơn giản về thời gian và hàng loạt các vấn đề khác mà các dự án năng lượng lớn đòi hỏi.

Cuối cùng thì dự án ở Alaska cũng được khởi động bằng việc tiến hành xây dựng khẩn cấp đường ống dẫn dầu trong vòng vài tuần sau khi lệnh cấm vận được ban hành. Các đường ống bằng thép và máy kéo được mua từ năm 1968 và hiện đang nằm chờ bên dòng sông Yukon băng giá, còn động cơ của các máy kéo đã được chuyển giao đúng kế hoạch từ 5 năm trước. Bây giờ, các thiết bị đó sẽ được đưa vào sử dụng và công việc sẽ được tiến hành nhanh chóng. Năm 1977, đường ống dẫn dầu dài 800 dặm được hoàn tất, một vài đoạn của đường ống được treo lơ lửng bằng những chiếc cột trên vùng lãnh thổ băng giá, những tấn dầu đầu tiên được chuyển từ North Slope đến cảng Valdez trên bờ biển phía nam Alaska. Năm 1978, hơn một triệu thùng dầu được vận chuyển qua đường ống mỗi ngày. Trong vòng vài năm, hệ thống đường ống này có thể chuyên chở được khoảng 2 triệu thùng dầu mỗi ngày, chiếm 1/4 tổng sản lượng dầu thô của Mỹ.

Tại Mexico, sau cuộc chiến quốc hữu hóa diễn ra nảy lửa vào cuối những năm 1930, ngành công nghiệp dầu lửa chuyển hướng vào trong nước. Mexico không còn phấn đấu để trở thành một trong các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới. Thay vào đó, công ty dầu mỏ quốc gia Pemex, hiện thân của chủ nghĩa dân tộc Mexico, đã tập trung toàn bộ năng lực cung cấp cho thị trường trong nước. Pemex cũng là mục tiêu cho cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát công ty giữa chính phủ và nghiệp đoàn công nhân viên ngành dầu khí hùng mạnh. Không phải ngẫu nhiên mà cả chính phủ và nghiệp đoàn đều giành giật vai trò là một nhà thầu hàng đầu của Pemex. Hàng chục năm qua, Pemex luôn hoạt động dưới sức ép, thu nhập của công ty bị giới hạn do mức giá dầu nội địa thấp. Các chương trình phát triển của Pemex đều do các kỹ sư vô cùng thận trọng điều hành, họ đã thấm nhuần nguyên tắc bảo tồn dựa trên nhận thức: các nguồn tài nguyên cần được khai thác và sử dụng tiết kiệm để dành cho các thế hệ sau. Do đó Pemex ít mở rộng các cơ sở dự trữ. Đến lúc năng lực sản xuất xã hội tăng, công ty này đã không kịp đáp ứng nhu cầu dầu lửa cho một "điều thần kỳ kinh tế Mexico" đang tăng trưởng như vũ bão. Kết quả là, Mexico không những không còn là quốc gia xuất khẩu dầu mà ngược lại, trở thành quốc gia nhập khẩu dầu với khối lượng nhỏ. Tuy nhiên để giữ thể diện, Mexico đã phải nhanh chóng mua một tàu dầu thô của hãng Shell tại Venezuela để che giấu sự thật đáng xấu hổ đó.

Để tìm được nhiều dầu hơn, Pemex phải đưa ra một chương trình khai thác bằng cách khoan sâu xuống lòng địa chất vùng hoang mạc miền Nam bang Tabasco. Năm 1972, người ta đã tìm thấy dầu tại một nơi có kết cấu vô cùng đặc biệt được biết với tên gọi Reforma. Các giếng dầu có năng suất cao tại Reforma mang đến cho vùng đất này cái tên "tiểu Côoét". Không lâu sau, Pemex cũng phát hiện ra khu vực có dầu còn lớn hơn ở ngoài khơi, đó là Vịnh Campeche.

Người ta nhanh chóng nhận thấy Mexico sở hữu trữ lượng dầu nhiều vào hàng nhất thế giới. Năm 1974, quốc gia này bắt đầu xuất khẩu lại một lượng nhỏ dầu mỏ, tuy nhiên việc này đã vấp phải sự chỉ trích của một số người cho rằng nó đi ngược lại chủ nghĩa dân tộc của Mexico. Trong những năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Luis Echeverria Alvarez, con người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến, trong khi năng suất xã hội không ngừng tăng lên thì các kỹ sư của Pemex vẫn tỏ ra rất cẩn trọng trước những đánh giá về trữ lượng dầu. Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi kể từ cuộc bầu cử tổng thống mới, Jose Lopez Portillo, năm 1976. Lopez Portillo là Bộ trưởng Tài chính của cựu Tổng thống Echeverria. Lopez Portillo tiếp nhận một nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái từ tay cựu tổng thống. "Nền kinh tế thần kỳ Mexico" hiện đang thiếu hơi đốt, nền kinh tế trì trệ, đồng peso mất giá, các chủ nợ quốc tế coi Mexico là đất nước có tỷ lệ rủi ro cao. Thêm vào đó, tốc độ gia tăng dân số ở Mexico còn diễn ra nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế, cứ hai người Mexico thì có một người dưới 15 tuổi; 40% lực lượng lao động không có việc làm hoặc bán thất nghiệp. Một tháng trước ngày chính thức nhậm chức của Tổng thống Lopez Portillo, tình hình diễn ra tệ đến mức có tin đồn rằng sẽ có một cuộc đảo chính quân sự.

Nguồn dầu mỏ mới như một món quà trời cho đối với đất nước này và cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973 khiến cho sản phẩm vàng đen càng có giá trị. Tổng thống Lopez Portillo quyết định đưa các giếng dầu mới tìm thấy vào hoạt động và coi đây là nhân tố quan trọng cho chiến lược kinh tế mới. Tổng thống đã bổ nhiệm người bạn cũ Jorge Diaz Serrano làm Giám đốc Pemex. Không giống như người tiền nhiệm, một kỹ sư chuyên ngành xây dựng cầu, Diaz Serrano hiểu rõ ngành công nghiệp dầu khí. Là một triệu phú, ông đã nắm lấy cơ hội đang trong tầm tay. Dầu sẽ mang lại cho Mexico ngoại tệ − thứ mà Mexico đang rất cần; dầu có thể giúp Mexico thoát khỏi sức ép thâm hụt cán cân thanh toán lên tăng trưởng kinh tế; dầu mang lại khoản ký quỹ cho các khoản vay quốc tế mới, đồng thời đặt Mexico vào vị trí trung tâm của các nền kinh tế quốc tế mới dựa trên dầu mỏ. Nói tóm lại, dầu sẽ là động lực phát triển mới.

Mặc dù rất ủng hộ việc khai thác dầu nhưng Tổng thống Lopez Portillo cũng đưa ra lời cảnh báo: "Khả năng tiêu hóa tiền tệ của một nền kinh tế cũng giống như khả năng tiêu hóa của cơ thể người. Bạn không thể ăn quá khả năng tiêu hóa của mình, nếu không bạn sẽ đau bụng và ốm. Nền kinh tế cũng giống như vậy". Nhưng việc làm của tổng thống thì lại khác và cho thấy còn mạnh bạo hơn cả lời nói. Đầu tư, đa phần là từ vốn vay nước ngoài, đổ dồn vào ngành dầu lửa. Trữ lượng khai thác dầu ngày càng mở rộng với tốc độ nhanh chóng; có nhiều nguồn tin lan truyền rằng tiềm năng dầu còn rất lớn. Năng suất khai thác và sản xuất đạt đến tốc độ nguy hiểm, thậm chí vượt quá kế hoạch. Sản lượng tăng từ 500.000 thùng mỗi ngày năm 1972 lên 830.000 thùng năm 1976 và nhanh chóng đạt con số 1,9 triệu thùng năm 1980, tăng gần bốn lần trong chưa đầy 10 năm. Năm 1976, Mexico còn là quốc gia mà các chủ nợ không muốn cho vay thì đến nay đất nước này là một trong các con nợ nhiều nhất thế giới. "Tại sao các chủ nhà băng đột nhiên lại quan tâm đến Mexico" là tiêu đề của một bài báo trên tạp chí Fortune. Câu trả lời tất nhiên là liên quan đến dầu mỏ. Phó chủ tịch Tập đoàn Manufacturers Hanover Trust đã nói: "Ngay cả Tom, Dick, Harry trong lĩnh vực ngân hàng cũng phải đến gõ cửa họ". Thậm chí, một quan chức Mexico còn được một tờ báo tài chính New York bình chọn là "Người đi vay của năm" năm 1978. Danh hiệu trên đúng ra là dành cho cả nước này. Dường như không có một giới hạn nào trong việc vay tiền: Chính phủ Mexico vay tiền từ nước ngoài, Pemex cũng vay tiền, các công ty của nhà nước và tư nhân khác cũng vay tiền, nói chung tất cả mọi đều vay tiền từ nước ngoài. Vậy thì tổng lượng tiền mà Mexico đã vay là bao nhiêu? Không ai biết. Nhưng người ta cũng không coi điều đó là quan trọng. Tín dụng của Mexico dựa trên dầu là rất tốt hay ít nhất đó cũng là những gì mà các chủ nhà băng và các đối tác Mexico đã nghĩ. Tuy nhiên, có một điều rõ ràng: Mexico đã trở thành một nguồn lực chính trong thị trường dầu mỏ thế giới, điều chưa từng xảy ra kể từ những năm 1920 và Mexico sẽ là một nguồn cung cấp dầu thay thế quan trọng, làm suy yếu dần quyền lực tuyệt đối của OPEC.

Biển Bắc: sân chơi lớn

Từ hàng trăm năm qua, Biển Bắc là địa phận sinh sống của ngư dân, họ đánh bắt cá trích, ngành kinh doanh lớn nhất của Bắc Âu thời Trung Cổ và gần đây là cá êfin và cá tuyết. Nhưng vào giữa những năm 1970, từ trên trực thăng nhìn xuống người ta có thể thấy một cảnh tượng mới: đó là những giàn khoan nổi, giàn khai thác, tàu tiếp tế, xà lan đặt ống dẫn dầu − lúc đầu là từng thứ từng thứ một, sau đó số lượng các thiết bị tăng dần và gần như lấp đầy mặt biển. Các vùng Biển Bắc và Anh nằm giữa Na Uy là sân chơi mới lớn nhất của ngành công nghiệp dầu lửa thế giới đồng thời cũng là nơi tập trung vốn đầu tư và nỗ lực nhiều nhất. Không một công ty lớn nào bỏ qua cơ hội này, rất nhiều đối thủ mới nhảy vào tham gia, từ các công ty trong ngành công nghiệp tới các tờ-rớt đầu tư ở Edinburgh vốn trầm lặng hay ông trùm ngành báo chí Lord Thomson − người sở hữu tờ Times tại London. Ông là một đối tác của Armand Hammer.

Chưa bao giờ diễn ra ở Tây Âu kể từ năm 1920, khi người ta khoan hàng nghìn giếng khai thác với niềm hy vọng. Nhưng kết quả đáng thất vọng: tổng sản lượng của toàn bộ khu vực chưa bao giờ vượt quá con số 250.000 thùng một ngày. Cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 là động lực thúc đẩy các nghiên cứu nhằm bảo đảm nguồn dầu và khí đốt tại châu Âu. Năm 1959, Shell và Esso đã tìm ra một mỏ khí lớn tại Groningen, Hà Lan. Đây là mỏ khí lớn nhất được phát hiện bên ngoài Liên Xô. Nhận thấy vùng địa chất của Biển Bắc tương tự với vùng địa chất này của Hà Lan, các công ty dầu khí bắt đầu đổ xô vào khai thác các vùng biển liền kề. Năm 1965, cùng năm Anh và Na Uy chính thức thỏa thuận phân chia Biển Bắc, trong đó bao gồm cả quyền đối với khoáng sản, người ta đã tìm thấy những trầm tích khí tự nhiên lớn trên những vùng tương đối nông ở phía nam của biển này; và dựng lên những giàn khai thác tương đối lạc hậu theo tiêu chuẩn hiện nay để khai thác khí. Một vài công ty tiếp tục khai thác dầu nhưng không mấy hào hứng.

Công ty xăng dầu Phillips ở Bartlesville , Oklahoma là một trong số đó. Mối quan tâm của công ty này bắt nguồn từ năm 1962, trong kỳ nghỉ của phó chủ tịch công ty tại Hà Lan, ông này đã bị hấp dẫn bởi một giàn khoan gần Groningen. Hai năm sau, sau khi các quan chức cao cấp của công ty dành cả một buổi chiều xem xét các mẫu dữ liệu địa chất được rải ra trên 300 feet sân bóng rổ của công ty tại Bartesville, Phillips, đã quyết định theo đuổi chương trình khai thác. Nhưng nửa thập kỷ sau đó, công ty vẫn chưa tìm được một giọt dầu nào, thay vào đó là hàng loạt các giếng khô. Vì vậy, năm 1969 Phillips đã chuẩn bị sẵn sàng để rút khỏi dự án. Không chỉ thế, công ty Phillips còn cho khoan 32 giếng dầu khác trên thềm lục địa Na Uy nhưng không một giếng nào trong số đó mang lại giá trị thương mại. Và hố khoan nối tiếp hố khoan, Biển Bắc trở thành nơi mất hết hy vọng và mất nhiều chi phí hơn bất cứ nơi đâu công ty đã theo đuổi. Một thông điệp rất rõ ràng từ trụ sở công ty tại Bartlesville được gửi tới giám đốc của Phillips tại Na Uy: "Không được khoan thêm bất cứ một giếng nào khác nữa".

Nhưng với bề dày truyền thống đã có từ thời xây dựng giếng dầu của đại tá Drake tại Pennsylvania năm 1859 và lần đầu tiên tìm ra dầu tại Ba Tư năm 1908. Phillips đành phải miễn cưỡng tiếp tục theo đuổi dự án − song cũng chỉ vì công ty đã trả chi phí cho việc sử dụng giàn khoan Ocean Viking và không thể tìm được ai khác muốn thuê lại nó. Phillips buộc phải trả các chi phí theo ngày cho dù công ty có sử dụng giàn khoan hay không. Thời tiết ngày càng trở nên xấu hơn, biển động dữ dội. Một hôm, giàn khoan bị gãy rời khỏi mỏ neo và trôi khỏi hố khoan. Rồi vào một đêm khác, biển có bão lớn, giàn khoan gần như bị lật úp, người ta đã tính đến việc sơ tán khẩn cấp vào sáng sớm ngày hôm sau. Nhưng giàn khoan Ocean Viking đã làm được điều kỳ diệu. Tháng 11 năm 1969, nó đã tìm thấy dầu tại khu Block 2/4 ở mỏ Ekofisk trên lãnh hải Na Uy. Việc này đã diễn ra vào thời điểm vô cùng quan trọng của ngành công nghệ: các nhà du hành vũ trụ Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng. Khi người giám sát việc khoan thăm dò kiểm tra mẫu dầu lấy lên từ độ sâu 10.000 feet dưới đáy biển, ông đã ngạc nhiên trước biểu hiện bên ngoài của dầu bởi nó chứng tỏ đây là một loại dầu có chất lượng cao. Ông vui mừng nói với nhà địa chất học làm việc trên giàn khoan: "Những gì mà các du hành gia làm được thật là tuyệt vời. Nhưng còn cái này thì sao?" Ông chỉ vào mẫu dầu vừa tìm thấy, nó có ánh vàng, gần như trong suốt, hầu như hoàn toàn giống vàng.

dau mo tien bac va quyen luc ky 33
Các vùng Biển Bắc là sân chơi lớn của ngành công nghiệp dầu lửa thế giới

Phát hiện của Phillips khiến toàn bộ các công ty khác phải đánh giá lại các số liệu địa chất của mình và đẩy mạnh hoạt động. Sẽ chẳng còn bất kỳ giàn khoan nào bị bỏ rơi và rẻ rúm vì khai thác dầu ở biển Bắc. Một vài tháng sau đó, tại một hội nghị kỹ thuật tại London, khi được hỏi về các phương pháp mà Phillips sử dụng để phân tích địa chất tại khu vực khai thác dầu, một quan chức cấp cao của Phillips chỉ đơn thuần đáp lại: "Đó là may mắn".

Đến cuối năm 1970, công ty BP công bố phát hiện ra dầu tại khu mỏ Forties trên vùng biển Bắc của Anh, cách Ekofisk 100 dặm về phía tây bắc. Đó là khu vực có trữ lượng dầu lớn. Sau đó là hàng loạt các cuộc tranh đua đi tìm dầu vào năm 1971 bao gồm việc Shell và Exxon khám phá ra mỏ dầu Brent với trữ lượng khổng lồ. Và thế là, cuộc chạy đua vào biển Bắc bắt đầu. Đến năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã biến cuộc chạy đua này bùng nổ.

May thay, thế hệ công nghệ mới hoặc đang được phát triển hoặc đã ra đời đã nhanh chóng được ứng dụng vào khu vực Biển Bắc, khu vực mà ngành dầu lửa chưa từng khai thác. Toàn bộ sự đầu tư này vô cùng mạo hiểm xét trên cả lĩnh vực kinh tế và tự nhiên. Các giàn khoan dầu phải có khả năng hoạt động sâu dưới nước tốt nhất từ trước tới nay, tiếp đó phải khoan thêm bốn dặm dưới đáy biển. Và tất cả các thiết bị cũng như con người phải đối mặt với tình trạng biển động mạnh, thời tiết khắc nghiệt nhất trên thế giới. Một hoa tiêu trưởng tâm sự: "Ở khu vực biển Bắc, chẳng có gì tệ hơn cơn giận dữ của biển". Thời tiết không những xấu mà còn có thể thay đổi 3, 4 lần trong một ngày. Người ta có thể dễ dàng bắt gặp các hiện tượng như: bão bất ngờ kéo đến và diễn ra trong nhiều giờ, những con sóng cao 50 feet, gió thổi với vận tốc 70 dặm/giờ. Những giàn khai thác để hút dầu chính là các thành phố công nghiệp thu nhỏ đặt trên các hòn đảo nhân tạo, nó được xây dựng trên vùng địa chất yếu như bùn, vùng cát lún, đất sét nhưng lại cần phải vững chắc để chống lại những cơn giận dữ dữ dội của các con sóng cao 90 feet hay những cơn gió với vận tốc 130 dặm/giờ.

Tất cả những điều này kết hợp lại khiến dự án phát triển ở biển Bắc trở thành một dự án đầu tư lớn nhất thế giới, và nó càng trở nên tốn kém hơn khi các chi phí đều không ngừng leo thang. Tại đây, người ta đã sử dụng những công nghệ hiện đại bậc nhất và tiến hành theo phương pháp khẩn trương đáng kinh ngạc. Ngày 18 tháng 6 năm 1975, thư ký Bộ Năng lượng Anthony Wedgwood Benn của Anh đã mở van đường ống dẫn dầu từ một tàu chở dầu đậu tại cửa sông Thames trong lễ kỷ niệm đợt dầu đầu tiên từ Biển Bắc, mỏ Argyll, được đưa vào bờ tới nhà máy lọc dầu. Ông hào hứng tuyên bố trước toàn bộ dân chúng rằng từ nay về sau, ngày 18 tháng 6 sẽ là ngày kỷ niệm quốc gia. Tuy nhiên, Benn không mấy hứng thú với buổi lễ này bởi ông là nhà lãnh đạo cánh tả trong Đảng Lao động chủ trương quốc hữu hóa, ông ghét cay ghét đắng chủ nghĩa tư bản mà dầu lửa lại là đại diện cho nó. Trong nhật ký của mình, ông viết, ông bị buộc phải tham dự buổi lễ đó với sự có mặt của "toàn bộ các nhà tư bản quốc tế ở tất cả các lĩnh vực và các thành viên của Đảng Bảo thủ Anh". Và khi ông mở van đường ống dẫn dầu, "dường như dầu bắt đầu đi vào bờ", ông nói hoài nghi.

Benn có cách thể hiện thái độ thú vị hơn nhiều đối với các công ty dầu mỏ bởi ở Anh, ông là người đứng đầu khởi động lại cuộc chiến cố hữu giữa chính phủ với các công ty dầu mỏ. Không ai còn nghi ngờ gì về trữ lượng dầu mỏ ở vùng Biển Bắc và do đó, rủi ro cũng được hạn chế tối đa. Vì vậy, giống như các chính phủ khác, Chính phủ Anh muốn có phần lớn hơn ở những mỏ cho thuê, thêm vào đó là có nhiều quyền kiểm soát đối với loại "tài sản quốc gia" này và sau đó cũng có thể quốc hữu hóa hoàn toàn. Bộ trưởng của Benn, Lord Balogh đã phàn nàn: "Để tránh hàng rào thuế quan các công ty dầu mỏ có thể nhảy vào một quốc gia khác dễ hơn cả con kangaroo nhảy qua hàng rào khi bị con dingo truy đuổi". Và kết quả của cuộc tranh luận là sự ra đời của một loại thuế đặc biệt đánh vào doanh thu từ dầu và sự thành lập một công ty dầu mỏ nhà nước mới mang tên Công ty dầu mỏ quốc gia Anh (British National Oil Corporation). Công ty này có sự tham gia của nhà nước, được quyền mua 51% sản lượng dầu tại Biển Bắc, điều đó cũng có nghĩa là nhà nước chiếm đa phần sản lượng dầu. Việc Chính phủ Anh dùng các biện pháp mạnh để cắt xén lợi nhuận của các công ty dầu mỏ, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc khai thác dầu tại Biển Bắc đã khiến người đứng đầu một công ty dầu mỏ phải thốt lên: "Tôi không thấy sự khác biệt rõ ràng nào giữa các quốc gia OPEC và Anh".

Ở một khía cạnh nào đó, một ý nghĩ tương tự cũng nảy sinh trong đầu Thủ tướng Anh Harold Wilson. Ông đang ngồi trên phòng làm việc tầng hai tại nhà số 10 phố Downing, miệng ngậm tẩu thuốc vào một ngày hè năm 1975, một vài tuần sau lễ kỷ niệm những thùng dầu đầu tiên từ biển Bắc. Wilson là người giữ chức vị Thủ tướng Anh lâu năm nhất. Ông cũng là người đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong học thuyết chính trị với câu nói xứng đáng khắc sâu vào tâm trí của tất cả các nghị viện, quốc hội trên thế giới: "Trong chính trị, một tuần là khoảng thời gian dài". Wilson lần đầu nắm quyền năm 1964 với lời hứa sẽ lãnh đạo nước Anh trì trệ bước vào "sức nóng ghê gớm của cuộc cách mạng công nghệ", nhưng rồi một thập kỷ sau đó, nước Anh bước vào công nghệ phát triển dầu lửa chứ không phải công nghệ máy tính, không gian vũ trụ như những gì mà nước Anh dự đoán. Đó là một ngày hè đặc biệt, Wilson đang trầm tư suy nghĩ làm cách nào để sản lượng khai thác dầu lửa có thể tăng trưởng từ mức nhỏ giọt hiện nay lên 2,5 triệu thùng một ngày, thay đổi triển vọng kinh tế của nước Anh đồng thời tác động đến cán cân quyền lực dầu lửa trên thế giới. Ông đang suy nghĩ theo cái cách mà một thủ tướng của một quốc gia dầu lửa thường làm. Trong khi đó, chính quyền Ford đang vận động chống lại tình trạng dầu tăng giá. Wilson nói: "Chúng tôi vui mừng khi thấy dầu không xuống giá nhiều và nếu nước Mỹ thật sự muốn giá dầu giảm thì nhiều người ở đây không nhất thiết phải tán đồng".

Đó quả là một sự mỉa mai ghê gớm. Wilson đang ngồi trong gian phòng mà Anthony Eden đã sử dụng hai thập kỷ trước, khi Eden đang tranh luận các vấn đề về Suez, Nasser, chủ nghĩa dân tộc và những mối đe dọa đối với nguồn cung dầu của Anh. Năm 1956, mối đe dọa trở nên nghiêm trọng đến mức Thủ tướng Eden phải quyết định dùng quân đội tấn công vào kênh đào Zone nhưng không thành công. Sự kiện này đã chấm dứt vai trò lịch sử của châu Âu tại Trung Đông và chắc chắn đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của Eden. Tuy nhiên, Wilson sẽ không có kết cục như vậy. Trên thực tế, ông không ngại ngùng thú nhận tham vọng của mình mà điều này có thể khiến Eden bàng hoàng. Là thủ tướng của một quốc gia dầu lửa mới nổi, ông hy vọng sẽ trở thành chủ tịch của tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC vào năm 1980.

"Sự thiếu hụt đột ngột"

Một kết quả đặc biệt của cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973 là sự gia tăng nhu cầu về một loại hình công việc mới: dự đoán giá dầu. Trước năm 1973, đây là một việc không cần thiết. Bởi giá dầu thay đổi chỉ ở mức vài xu, không tính bằng đô-la như sau năm 1973 và trong vòng nhiều năm liền giá dầu gần như không ổn định. Sau năm 1973, công việc dự báo sự biến động của giá dầu bùng nổ. Hơn thế nữa, giá dầu biến động không chỉ ảnh hưởng tới các ngành năng lượng mà còn tác động tới người tiêu dùng và vô số các ngành kinh tế khác, từ ngành hàng không đến các ngân hàng, hợp tác xã nông nghiệp, cho tới chính phủ của các nước và cả nền kinh tế toàn cầu. Dường như tất cả mọi người đều tham gia vào dự đoán mức lên xuống của giá dầu. Các công ty dầu mỏ dự báo, các chính phủ, ngân hàng trung ương, các tổ chức quốc tế, các công ty môi giới, ngân hàng đều có những dự báo của riêng mình. Trên thực tế, điều này có thể làm cho người ta nhớ tới điệp khúc trong một bài hát của Cole Porter: "Chim làm điều đó, ong làm điều đó và ngay cả đến những con bọ chét được rèn luyện cũng có thể làm được điều đó".

Cũng giống như tất cả các hình thức dự báo kinh tế khác, hình thức dự báo này mang tính khoa học. Óc phán đoán và các giả định chi phối mọi sự dự báo. Hơn thế nữa, các dự đoán còn chịu nhiều ảnh hưởng của "cộng đồng" mà nó tiến hành, do đó, nó là một hiện tượng mang tính tâm lý và xã hội, phản ánh tác động của những người cùng địa vị và cách mà từng cá nhân, nhóm người tìm kiếm sự ổn định, sự chắc chắn, thoải mái chung trong một thế giới biến động. Và kết quả cuối cùng của sự dự báo thường có xu hướng mạnh mẽ hướng tới sự nhất trí chung, ngay cả khi cứ vài năm sự nhất trí này lại hoàn toàn thay đổi.

Đến năm 1978, một sự nhất trí chung như vậy có được trong toàn bộ cộng đồng các nhà dự báo giá dầu. Họ đưa ra quyết định dựa trên những dự báo đó. Mặc dù ba vùng Alaska, Mexico và biển Bắc gộp lại một ngày cung cấp 6 đến 7 triệu thùng dầu cho thị trường thế giới vào đầu hoặc giữa những năm 1980, thì sản lượng này cũng chỉ là lượng bổ sung, làm chậm lại, vơi đi cơn khát dầu chứ không thể xua đi sự thiếu hụt. Phần lớn các nhà dự báo nhất trí: có nhiều khả năng một cuộc khủng hoảng dầu lửa sẽ xảy ra sau một thập kỷ nữa, khoảng nửa cuối những năm 1980 khi nhu cầu dầu lửa một lần nữa lại chạm đỉnh của khả năng cung cấp. Kết quả là dẫn tới khoảng trống giữa cung và cầu: sự thiếu hụt. Dưới góc độ kinh tế, bất cứ một sự mất cân bằng nào như thế xảy ra cũng sẽ được giải quyết bằng việc tăng giá và như thế sẽ dẫn tới khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai như những gì đã xảy ra vào đầu những năm 1970. Tuy giữa các nhà dự báo cũng có những nhận định khác nhau về nhiều vấn đề nhưng họ tương đối thống nhất với các vấn đề chính là liệu nguyên nhân gây ra khủng hoảng là từ các công ty dầu mỏ lớn, CIA, chính quyền các nước phương Tây, các cơ quan quốc tế, các chuyên gia độc lập hay ngay chính trong bản thân các nước xuất khẩu dầu OPEC. Không chỉ các nhà dự báo bị nhận định trên thuyết phục mà ngay cả những người lãnh đạo, hoạch định chiến lược − những người dựa vào các dự báo để đưa ra các chính sách, kế hoạch đầu tư và phương hướng hành động − cũng tin vào nó.

Một giả định quan trọng bậc nhất trong quan điểm chung nêu trên là niềm tin vào "Quy luật không thay đổi được". Quy luật này nói rằng: có một mối quan hệ khăng khít không thể chối bỏ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ gia tăng nhu cầu năng lượng và dầu lửa. Nếu một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ 3 đến 4% một năm thì có thể ước chừng nhu cầu về dầu lửa cũng tăng với mức tương tự. Ngoài ra còn một quy luật nữa, đó là: thu nhập là yếu tố quyết định tới tiêu dùng năng lượng và dầu lửa. Và thực tế ghi nhận trong các năm 1976, 1977 và 1978 đã chứng minh cho nhận định trên. Tăng trưởng kinh tế trong thế giới công nghiệp đã phục hồi từ mức giảm phát sâu sang mức tăng trưởng trung bình 4,2% trong vòng 3 năm, nhu cầu về năng lượng tăng trưởng với tốc độ trung bình 4% trong vòng 3 năm đó. Bức tranh về thế giới tương lai hiện lên như một sự phản chiếu các điều kiện hiện tại: Các nền kinh tế phát triển sẽ tiếp tục đòi hỏi sự gia tăng sản lượng dầu. Quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển sẽ góp phần làm tăng thêm nhu cầu dầu lửa. Tác động của các biện pháp bảo tồn năng lượng trong tương lai cũng sẽ giảm dần. Viễn cảnh lại sẽ tiếp tục lặp lại những gì đã diễn ra năm 1973.

Ahmed Zaki Yamani, người đứng đầu đề xướng ra Chiến lược lâu dài cho OPEC, cũng bắt đầu từ bỏ luận điểm cố hữu về việc giữ giá dầu ổn định và thay vào đó, ông lập luận cho hình thức tăng giá dầu từ từ, đều đặn với một tỷ lệ nhỏ bởi điều đó sẽ khuyến khích việc bảo tồn nguồn tài nguyên dầu, đồng thời phát triển các nguồn nhiên liệu thay thế. Ông nói, hình thức này phù hợp và ít làm mất ổn định xã hội hơn là mức tăng giá chóng mặt như những gì mà mọi người dự đoán. Tháng 6 năm 1978, ông phát biểu: "Từ những nghiên cứu của chúng tôi cũng như những nghiên cứu đáng tin cậy khác, có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt dầu lửa trong khoảng những năm 1980 nếu như không phải là trước đó. Bất chấp những gì mà chúng ta làm, thì thời điểm đó vẫn đang đến".

Những gì mà Yamani nói cũng chính là viễn cảnh tương lai chung ở cả các nước xuất và nhập khẩu dầu. Ngay tại Washington, một vài người khi nhìn thấy giá dầu thực tế giảm và cầu dầu lại tăng đã bắt đầu nghĩ, nếu ngay từ đầu giá dầu tăng từ từ thì về sau có thể giảm được rất nhiều biến động và tổn thất. Chắc chắn khủng hoảng sẽ xảy ra trong vòng một thập kỷ tới nhưng nhiều người cũng cho rằng điều kiện này sẽ không dẫn tới tình trạng tăng giá lớn nào trong tương lai gần. Quan điểm này dựa trên nhìn nhận về kinh tế. Tất nhiên, chính trị cũng là một nhân tố cần phải xem xét, tuy nhiên chưa bao giờ chính trị lại phù hợp với các biện pháp đối phó tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự biến động không ngừng của đường cầu. Tuy nhiên, không thể bỏ qua yếu tố này. Và đối với chính trị, sẽ không có cái gọi là chính sách dài hạn.

Ngày cuối cùng của năm 1977, trên đường từ Warsaw tới New Delhi trong chuyến công du ba lục địa, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã đến Tehran. Sau này tổng thống kể lại, ông đã hỏi vợ nơi nào mà bà muốn tới nhất trong đêm giao thừa, bà trả lời rằng muốn có một đêm giao thừa cùng với vua và Hoàng hậu Iran vì gia đình Carter đã có quãng thời gian vô cùng tuyệt vời khi vợ chồng nhà vua thăm Washington sáu tuần trước. Tuy nhiên, ẩn đằng sau sự lựa chọn của họ là hàng loạt các lý do cho chính sách thực dụng cũng như hàng loạt các ẩn ý. Tổng thống Carter rất ấn tượng về vua Iran. Còn về phía vua Iran, ông đang tiến từng bước vô cùng quan trọng tới tự do hóa và đang tọa đàm về nhân quyền. So với lần đầu tiên quốc vương Iran tới phòng làm việc của người đứng đầu nước Mỹ, lần này Tổng thống Carter đã đánh giá cao hơn vai trò chiến lược của Iran và người lãnh đạo của quốc gia này. Iran sẽ là đòn bẩy để duy trì trật tự trong khu vực. Đất nước này sẽ là nhân tố cốt yếu làm đối trọng cho sức mạnh và những tham vọng của Liên Xô tại khu vực cũng như các lực lượng có quan điểm cấp tiến và các lực lượng chống đối phương Tây khác. Iran đồng thời cũng là trung tâm bảo đảm an ninh cung cấp dầu lửa của thế giới với vai trò là một trong hai quốc gia xuất khẩu dầu mỏ chủ yếu và là cường quốc trong khu vực.

Tổng thống Carter cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn của ông tới quốc vương Iran cho những tiến bộ mà ông này đạt được trong vấn đề nhân quyền và sự thay đổi quan điểm của ông trong vấn đề giá dầu, Tổng thống Carter coi đó là sự nhượng bộ lớn nhất mà một Shah có thể làm. Thêm vào đó, Tổng thống Mỹ lấy làm tiếc và xấu hổ cho cuộc nổi loạn và khí hơi cay đã xả vào phái đoàn của quốc vương Iran trong chuyến thăm của ông tới Mỹ tại bãi cỏ phía nam của Nhà Trắng. Tổng thống Carter bày tỏ mong muốn được khép lại bất cứ những hiểu lầm nào trong quan hệ giữa hai nước và nhấn mạnh sự hỗ trợ chính thức của nước Mỹ đối với Iran. Và vì thế trong bữa tiệc đêm giao thừa, Tổng thống Carter đã đứng dậy nâng cốc chúc mừng cho sự kiện đáng nhớ này. Ông nói: "Với sự lãnh đạo vĩ đại của quốc vương, Iran đã trở thành một quốc gia ổn định của một trong những khu vực bất ổn định nhất trên thế giới. Ly rượu này là để bày tỏ sự cảm phục của tôi đối với ngài, vị Shah đáng kính, để chúc mừng cho sự lãnh đạo của ngài, cho sự kính trọng, ngưỡng mộ và tình yêu mà thần dân của ngài dành cho ngài". Sau lời tuyên bố mạnh mẽ đó, Tổng thống Mỹ và quốc vương Iran đã cùng nhau đón một năm mới với nhiều sự kiện quan trọng, năm 1978.

Những gì mà Tổng thống Mỹ miêu tả về một quốc gia ổn định không được nhiều người chia sẻ. Không lâu sau chuyến thăm của Tổng thống Carter, chủ tịch của một công ty dầu mỏ độc lập của Mỹ hoạt động tại Iran đã phải rời Tehran về nước. Ông này đã nhận được một thông điệp mật mà ngay sau đó muốn chia sẻ với một giám đốc của mình. Ông nói: "Quốc vương Iran đang gặp rắc rối lớn".

Còn tiếp

Nam Hà (giới thiệu)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 26)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 26)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 27)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 27)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 28)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 28)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 29)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 29)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 30)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 30)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 31)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 31)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 32)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 32)

DMCA.com Protection Status