Cơ chế vận hành của Trung tâm giao dịch khí đốt TTF Hà Lan (Kỳ cuối)

11:00 | 20/08/2024

1,848 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
(PetroTimes) - Việc thực hiện toàn bộ kế hoạch hành động này đòi hỏi nỗ lực từ các bên thị trường (và đặc biệt là từ GasTerra), GTS và chính phủ.

Tính cân bằng

Chủ hàng có vị trí vật chất phải đảm bảo lượng khí đốt đưa vào và bơm rút ra khỏi mạng lưới đường ống bằng nhau. Để làm như vậy, cả hai nguồn vật chất, chẳng hạn như kho lưu trữ khí, đều có thể được sử dụng và mọi sự mất cân bằng đều có thể được giao dịch trên TTF. Hầu hết các chủ hàng đều cho biết trong cuộc tư vấn họ kỳ vọng có thể cân bằng vị trí vật chất của mình thông qua TTF song thiếu thông tin định hướng để làm điều đó. Họ cũng chỉ ra việc cân bằng thông qua TTF có thể dẫn đến tính thanh khoản tăng lên đáng kể. Về vấn đề này, GTS duy trì sự cân bằng hệ thống để đảm bảo tính toàn vẹn của mạng. Để làm được điều đó, GTS đã ký kết hợp đồng “tại nguồn” (at the source) với các nhà quản lý nguồn lực linh hoạt.

Cơ chế vận hành của Trung tâm giao dịch khí đốt TTF Hà Lan (Kỳ cuối)

Cân đối trên TTF của chủ hàng: Về nguyên tắc, chủ hàng có ba phương pháp cân đối danh mục đầu tư của mình. Đầu tiên họ có thể trao đổi sự mất cân đối với nhau bằng cách sử dụng các sản phẩm ngắn hạn. Thứ hai, họ có thể sử dụng các sản phẩm linh hoạt ngắn hạn (lưu trữ khí đốt và Combiflex). Thứ ba, những người mua lớn và các nhà máy điện có thể điều chỉnh mức độ nhu cầu của mình.

Đối với tất cả các phương pháp này, điều kiện cơ bản là chủhàng có cái nhìn sâu sắc về vị trí cân bằng của mình vào bất kỳ thời điểm nào. Thông tin cần thiết cho việc này được gọi là “thông tin chỉ đạo” (steering information). Nhiều bên tuyên bố rằng họ coi thông tin chỉ đạo đầy đủ là rất quan trọng để xác định vị trí cân bằng của họ và ước tính những rủi ro mất cân bằng có thể xảy ra mà họ phải gánh chịu. Một hiệp hội của các bên quan tâm tuyên bố “thông tin chỉ đạo định hướng tốt sẽ loại bỏ rào cản gia nhập đối với các chủ hàng trong giao dịch khí đốt ngắn hạn, điều này sẽ đem lại tính thanh khoản cao hơn đáng kể cho thị trường khí đốt ngày tới (day-ahead) cho phép các bên tham gia thị trường mua và bán khí đốt vào ngày hôm sau, trong khi thị trường trong ngày (intraday) cho phép giao dịch trong cùng ngày. Đối với một số bên, đây thậm chí còn là biện pháp quan trọng nhất để phát triển TTF song cần có sự hợp tác giữa GTS và chủ hàng, các nhà quản lý mạng lưới khu vực và các công ty đo đếm để phân tích nhu cầu thông tin và cung cấp thông tin.

NMa/DTe cho rằng việc cân bằng TTF của chủ hàng là một bước quan trọng trong việc thu hút giao dịch thương mại vật chất. Thông tin chỉ đạo liên quan đến cả vị trí cân bằng riêng lẻ của chủhàng và thông tin chung về cân bằng hệ thống nói chung là điều cần thiết. Để có cái nhìn sâu sắc toàn diện về vị trí cân bằng của chủ hàng, cả thông tin từ GTS và thông tin từ các nhà khai thác mạng lưới khu vực đều cần thiết liên quan đến Quy định châu Âu 1775/2005 thì TSO có nghĩa vụ cung cấp thông tin này. Về vấn đề này, sáng kiến ​​của nhóm được gọi là “Progas” đã được thực hiện trong lĩnh vực này song việc hiện thực hóa điều này đã bị trì hoãn.

Ngoài ra, nguồn linh hoạt vật chất quan trọng nhất ở CH Hà Lan là danh mục đầu tư của GasTerra. Hiện tại, cơ sở lưu trữ của bên thứ ba còn thiếu hụt so với nhu cầu. Theo Điều 10a của đạo luật Khí đốt, GTS cung cấp các sản phẩm linh hoạt mà GTS có thể mua trên thị trường với việc càng nhiều khí đốt cũng là khí đốt có nhiệt trị thấp được cung cấp thông qua TTF thì nhu cầu về các sản phẩm linh hoạt của GTS càng lớn. Do đó, điều quan trọng là phải đảm bảo có đủ các dịch vụ này trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống dựa vào thị trường cũng như đảm bảo việc nguồn cung phù hợp với nhu cầu, trogn khi đó, NMa giám sát và điều chỉnh việc này.

Hiện chủ hàng cũng có thể giúp quản lý số dư hệ thống của GTS, miễn là họ có thông tin về trạng thái “giám sát lượng khí đốt trong đường ống” (linepack monitor). Nếu chủ hàng có thể tự mình rơi vào trạng thái mất cân bằng để cải thiện sự cân bằng của hệ thống, điều này sẽ đem lại lợi ích cho toàn bộ hệ thống. Để thực hiện được điều này, điều cần thiết là cái gọi là “giám sát lượng khí đốt trong đường ống” phải được triển khai càng sớm càng tốt và chủ hàng có động cơ tài chính để đóng góp vào sự cân bằng của hệ thống. Hiện NMa/DTe lưu ý việc đã xảy ra sự chậm trễ đáng kể trong quá trình chuẩn bị các đề xuất chung của các nhà khai thác mạng lưới đường ống chung.

Cơ chế cân bằng: Trong các cuộc thảo luận với lĩnh vực công nghiệp, hệ thống cân bằng áp dụng trong thị trường điện thường được lấy làm ví dụ điển hình. Hãng TenneT là một nhà vận hành mạng lưới truyền tải điện (Transmission System Operator-TSO) hàng đầu châu Âu đã ký kết hợp đồng điều tiết điện từ một số nhà sản xuất lớn; những chi phí công suất này được tính vào biểu giá của hệ thống. Chi phí của hàng hóa là sự mất cân bằng thực tế của các bên tham gia thị trường riêng lẻ, thì được giải quyết riêng biệt thông qua hệ thống thang giá thầu trên thị trường với TenneT là đối tác trung tâm. Việc thanh toán hàng hóa là trung lập về mặt chi phí đối với TenneT, mặc dù thông thường, sự mất cân bằng của hệ thống càng cao thì chi phí mà các bên thị trường phải gánh chịu càng cao. Tuy nhiên, trong trường hợp GTS, chi phí phát sinh về công suất sẽ được thu hồi thông qua thuế đánh vào hàng hóa. Khi TenneT tin tưởng chắc chắn chi phí công suất sẽ được thu hồi, thì điều này chỉ xảy ra đối với GTS nếu có đủ số chủ hàng bị mất cân bằng và/hoặc mức thuế đủ cao. Trong trường hợp của TenneT, bản thân giá trên thị trường “thông thường” (ordinary) vào ngày giao hàng cũng tương đương với giá cân bằng; trong trường hợp GTS, thuế hàng hóa để cân bằng bị “nhiễm bẩn” (contaminated) bởi một thành phần công suất, do đó không thể so sánh được với giá cả hàng hóa “thuần túy” (pure) với khả năng so sánh tăng cường tính thanh khoản của giao dịch vào ngày giao hàng. Cuối cùng, trong trường hợp của TenneT, do công bố cái gọi là “tín hiệu delta”, các bên trên thị trường có thể tự mình quyết định rơi vào tình trạng mất cân bằng để khôi phục lại sự cân bằng của hệ thống. Trong hệ thống mất cân bằng của TenneT, điều này có thể rất có lợi cho các bên tham gia thị trường; trong trường hợp của GTS thì lại không phải vậy. Trong trường hợp của TenneT, nhiều bên tham gia thị trường đóng góp theo cách này để quản lý chi phí cân bằng, trong khi GTS tự chịu gánh nặng cân bằng.

Một số chủ hàng lại ủng hộ một hệ thống trong đó GTS giải quyết sự mất cân bằng trên cơ sở hệ thống dựa trên thị trường khi mà một số bên tuyên bố ủng hộ việc cân bằng vật chất bằng GTS trên TTF song một số bên khác lại cảnh báo điều này có thể không dẫn đến các hoạt động thương mại của GTS trên TTF. Bởi vì lý do tương tự, hiện có một bên khác thì lại phản đối biện pháp này. Bản thân GTS cũng đã vạch ra biện pháp này chỉ có thể được áp dụng nếu có đủ thông tin chỉ đạo. Bản thân GTS cũng tham gia vào một thí điểm trong đó một phần cân bằng hệ thống được cung cấp thông qua TTF. GTS cũng tạo ra mối liên hệ với các giới hạn dung sai hiện tại: Dung sai được cung cấp cho thị trường càng ít “miễn phí” thì thị trường khả thi để cân bằng càng lớn.

NMa/DTe thì lại cho rằng sự kết hợp hiện tại giữa hàng hóa và công suất trong một khoản thuế duy nhất là chưa tối ưu và không hiệu quả cũng như thiếu cơ hội và động lực để chủhàng khôi phục lại sự cân bằng hệ thống. NMa/DTe cũng lưu ý các đơn vị vận hành lưới điện chung chưa hành động đủ quyết đoán cũng như việc GTS đánh giá cơ chế cân bằng cũng chưa đầy đủ về mặt này.

Phương pháp tiếp cận tích hợp thông tin chỉ đạo, giám sát lượng khí đốt trong đường ống và chế độ cân bằng: Trên cả ba vấn đề nêu trên thì đều có liên quan chặt chẽ với nhau song vẫn chưa đạt được kết quả đầy đủ trong những năm gần đây. Quy trình Quy tắc của NMa, theo đó sáng kiến ​​thuộc về các nhà vận hành lưới điện chung, dường như không đem lại kết quả hành động đạt đủ tốc độ. Nếu các nhà quản lý lưới điện không gửi đề xuất chung thì NMa sẽ xem xét rõ ràng việc soạn thảo một đề xuất sửa đổi trong thông tin chỉ đạo, giám sát lượng khí đốt trong đường ống và chế độ cân bằng nào được giải quyết.

Cân bằng hàng ngày: Bước cuối cùng hướng tới cải thiện chế độ cân bằng có thể là chuyển đổi từ hệ thống kết hợp cân bằng hàng giờ và hàng ngày sang hệ thống chỉ cân bằng hàng ngày. Một số bên gọi đây là một bước đi quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho giao dịch thương mại trên TTF. Thứ nhất, hệ thống đơn giản hơn, do đó chủ hàng dễ quản lý hơn. Kết quả là CH Hà Lan sẽ trở nên hấp dẫn với tư cách là một quốc gia quá cảnh và một quốc gia thương mại. Thứ hai, có thể diễn ra nhiều giao dịch hơn vì giao dịch tập trung hơn vào một sản phẩm mỗi ngày thay vì bị phân tán trong 24 giờ khác nhau mỗi ngày. Về vấn đề này, các thỏa thuận quốc tế cũng rất quan trọng; Nếu các nước láng giềng chuyển sang phương pháp cân bằng hàng ngày một cách phối hợp, CH Hà Lan với hệ thống lai (hybrid system), có lẽ sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn.

Tuy nhiên, hiện vẫn chưa rõ chi phí và rủi ro khi triển khai hệ thống cân bằng hàng ngày ở CH Hà Lan sẽ là bao nhiêu, sau khi mở rộng hệ thống truyền tải do GTS lên kế hoạch và sau cách tiếp cận tích hợp về tính minh bạch và hệ thống cân bằng. Nếu có vẻ như hệ thống cân bằng theo giờ dựa trên thị trường đem lại một thị trường cân bằng tốt hơn và một thị trường của CH Hà Lan hấp dẫn, được tích hợp tốt với các nước láng giềng, thì việc đầu tư vào công suất truyền tải để tạo ra sự cân bằng hàng ngày có lẽ không phải là cơ hội.

Kế hoạch hành động

Đặt hàng: Giải pháp được đề cập trong các phần nêu trên khác nhau về mặt thời gian cần thiết, mức đầu tư cần thiết và hiệu quả kỳ vọng. Một số giải pháp này đã được các bên thị trường hoặc chính phủ trung ương thực hiện song những bên khác thì vẫn còn ở giai đoạn sơ khai và cần có hành động bổ sung.

Thứ nhất, có một số biện pháp có thể được thực hiện nhanh chóng và không cần đầu tư lớn, nhờ đó có thể đạt được sự cải thiện đáng kể. Việc hiện thực hóa những điều này sẽ có tác động đến thị trường (từ ngày 1/1/2009). Điều quan trọng nhất trong số này là sự chuyển đổi sang một phương thức kinh doanh mới liên quan đến khí đốt có nhiệt trị thấp: Mô hình “chuyển nhượng, giao dịch trên TTF”, kết hợp với các loại hợp đồng tiêu chuẩn và hợp đồng tổng thể do lĩnh vực đề xuất và giải quyết tranh chấp có thể thấy hiệu quả của các biện pháp này từ năm 2009 trở đi bởi do nhiều bên đã mua khí đốt cho năm 2008 và ảnh hưởng của các loại hợp đồng này về thời gian. Hệ thống dự trữ công suất chuyển đổi chất lượng cũng phải được bãi bỏ chậm nhất là vào ngày 1/1/2009.

Các biện pháp khác, có thể được thực hiện nhanh chóng, là cải thiện cơ chế cân bằng và tính minh bạch (thông tin định hướng và giám sát lượng khí đốt trong đường ống) và giảm rủi ro tín dụng liên quan đến mất cân bằng. Tất cả những biện pháp này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự cạnh tranh trên các thị trường có nhiệt trị thấp và nhiệt trị cao mà từ đó người mua có thể được hưởng lợi và có thể cải thiện đáng kể cơ hội kinh doanh khí đốt có nhiệt trị cao cũng như cơ hội tối ưu hóa danh mục đầu tư. Điều này có thể có lợi cho “vòng xoay khí đốt”. Thứ hai, có những biện pháp có thể được thực hiện trong vòng 2 đến 3 năm mà không cần đầu tư vật chất song điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp nhiều hơn. Những biện pháp này sẽ cải thiện đáng kể cơ hội tối ưu hóa dòng khí đốt quốc tế cũng như sự cạnh tranh trên thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp. Liên quan đến tham vọng tạo ra một “vòng xoay khí đốt”, điều này liên quan đến việc hài hòa hóa các thủ tục truyền tải, cải thiện hơn nữa tính minh bạch và cung cấp công suất truyền tải ngắn hạn.

Cuối cùng, có những biện pháp đòi hỏi thời gian đầu tư và thực hiện đáng kể, bao gồm việc mở rộng năng lực nhập khẩu, đưa LNG vào mạng lưới và đầu tư vào chuyển đổi chất lượng vật chất. Về vấn đề này, tất cả các biện pháp này đang được chuẩn bị và dường như không có biện pháp bổ sung nào là cần thiết. Tuy nhiên, các khoản đầu tư sẽ chỉ được tung ra thị trường từ năm 2010 trở đi. Liên quan đến việc kích thích đầu tư vào kho bãi (theo mùa), điều quan trọng là phải thực hiện nhanh chóng những sửa đổi cần thiết trong quy định, sau đó mới có thể chuẩn bị và thực hiện đầu tư. Về việc tạo kết nối hai chiều với NBP và Zeebrugge, vẫn chưa có kế hoạch nào được nhận biết; liên quan đến kết nối với Zeebrugge, NMa/DTe sẽ tư vấn cho GTS trong việc lập kế hoạch công suất và chất lượng thường xuyên.

Vai trò của chính phủ trung ương: Một kế hoạch hành động chi tiết bao gồm tất cả các biện pháp, bao gồm cả vai trò có thể có của chính phủ trung ương, được đính kèm dưới dạng phụ lục. Trên cơ sở nhiệm vụ riêng của mình, NMa/DTe có thể giải quyết một số vấn đề với các nhà vận hành lưới điện chung. Ví dụ như rủi ro tín dụng do mất cân bằng có thể được điều chỉnh thông qua đạo luật Khí đốt với sự hợp tác của các nhà điều hành lưới điện chung, cũng như có thể từ bỏ hệ thống chuyển đổi chất lượng dự trữ và cải thiện (tính minh bạch) của chế độ cân bằng. Thông qua Sáng kiến khu vực khí đốt, NMa/DTe cũng sẽ tiếp tục thực hiện các bước đi nhằm thúc đẩy tính minh bạch hơn nữa, đấu giá công suất nhập khẩu ngắn hạn và hài hòa hóa các thủ tục truyền tải. Trong năm 2008, NMa/DTe đã ưu tiên chuyển đổi chất lượng và chế độ cân bằng (bao gồm cả tính minh bạch) và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng tiêu chuẩn công nghiệp cho khí có nhiệt trị thấp (hoặc sẽ đảm bảo rằng quá trình này được tạo điều kiện thuận lợi).

Tuy nhiên, những biện pháp này là công cụ đem lại sự thành công của thị trường năng lượng thấp cũng như quyền tự do lựa chọn và cạnh tranh có lợi cho người mua. Đầu tiên và quan trọng nhất, Bộ Kinh tế CH Hà Lan cần có hành động để đưa ra gói biện pháp cơ cấu nhằm cải thiện thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp, điều này có thể liên quan đến cả việc sửa đổi đạo luật Khí đốt và các quy định dưới luật. Ngoài ra, cần có sự hỗ trợ liên tục của bộ ngành liên quan đối với việc quốc tế hóa thị trường thông qua Diễn đàn năng lượng ngũ giác cũng như đảm bảo môi trường đầu tư ổn định. Ví dụ như đối với việc lưu trữ khí đốt theo mùa, điều này có nghĩa là phải có khả năng phân bổ các địa điểm lưu trữ tiềm năng cho các nhà đầu tư trong việc lưu trữ khí đốt theo đạo luật Khai thác mỏ năm 2003 [Mijnbouwwet].

Tuấn Hùng

ACM

DMCA.com Protection Status