Gốc rễ thành công (Tiếp theo và hết)

11:28 | 10/11/2011

384 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
(PetroTimes) - TSKH Trần Lê Đông –  Tổng Giám đốc XNLD Vietsovpetro người đã có nhiều đóng góp lớn cho ngành Dầu khí nói riêng và cho đất nước nói chung.
goc re thanh cong tiep theo va het

Gốc rễ thành công (Kỳ I)

Trong một buổi làm việc với cán bộ khoa học XNLD Vietsovpetro, đoàn chuyên gia của Viện Nghiên cứu Dầu mỏ nổi tiếng của Pháp, tuy đã xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng nhưng họ cũng không ủng hộ phương án thu hồi dầu bằng phương pháp bơm ép nước của XNLD Vietsovpetro. Các cán bộ khoa học XNLD Vietsovpetro mời họ đi thăm phòng thí nghiệm để trình bày các kết quả nghiên cứu và phải trả lời họ rất nhiều câu hỏi mang tính phản biện. Lý lẽ khoa học buộc họ phải nhận thức lại rồi chính họ khẳng định: “Đối với tầng đá móng mỏ Bạch Hổ, không còn cách thu hồi dầu nào tốt hơn, các ông ứng dụng ngay phương pháp này nhất định sẽ cho ra một hiệu quả bất ngờ”.

Cuối năm 1993, kết quả thí nghiệm bơm ép nước để bảo tồn áp suất vỉa trong tầng móng của Viện Khoa học và Thiết kế XNLD Vietsovpetro đã được ứng dụng tại vùng mỏ Bạch Hổ. Nhờ phương pháp này, hệ số thu hồi dầu từ 15-18% được nâng lên 35-38%, rồi 40,3%, theo kết quả mô hình hóa năm 2003. Như vậy, ngay khi ứng dụng nó đã cho hiệu quả kinh tế rất cao, mang tính đột biến rõ rệt. Được biết, nếu việc điều chỉnh quá trình khai thác một cách hợp lý, kịp thời thì hệ số thu hồi dầu còn cao hơn nữa.

Ngoài ba nguyên tắc như đã nói, gần đây Vietsovpetro còn áp dụng một nguyên tắc nữa để tận thu dòng dầu ở mức tối đa, đó là: áp suất bơm phải hợp lý trên cơ sở thông số cụ thể của từng giếng. Cho đến nay, Vietsovpetro đã bơm xuống tầng móng gần 182 triệu m3 nước biển đã xử lý kỹ, giai đoạn này mỗi ngày phải bơm xuống khoảng 42 nghìn m3.

goc re thanh cong tiep theo va het
Anh hùng Lao động, Tiến sĩ khoa học Trần Lê Đông (người thứ 3 từ phải sang) và các nhà khoa học quốc tế tại Hội nghị KHCN ngành Dầu khí 2011

Hãy làm phép tính so sánh để thấy rõ vai trò quan trọng của một công trình khoa học mang ý nghĩa kinh tế cao của nó: Trong gần 156 triệu tấn dầu thô XNLD Vietsovpetro đã khai thác, có trên 137 triệu tấn được lấy lên từ tầng đá móng ở vùng mỏ Bạch Hổ, trong đó trên 50% sản lượng dầu từ tầng móng được khai thác nhờ áp dụng phương pháp bơm ép nước. Như vậy, tính đến hết tháng 6/2006, riêng áp dụng phương pháp này đã thu hồi được 68 triệu tấn dầu thô. Tính bình quân giá dầu Bạch Hổ từ năm 1986 đến 2005 là 187,2USD/tấn, thì hiệu quả của công trình khoa học nói trên đã mang lại lợi ích kinh tế là 12,7 tỉ USD, trừ chi phí nghiên cứu và đầu tư thiết bị kỹ thuật để thực hiện, lãi ròng còn lại đã thu về khoảng 10 tỉ USD. Hiện nay nhiều công ty dầu khí trong các liên doanh ở Việt Nam có mỏ dầu trong tầng móng, đã áp dụng phương pháp này để thu hồi dầu trong các mỏ như: JVPS ở mỏ Rạng Đông, J0C Cửu Long ở mỏ Sư Tử Đen một cách có hiệu quả.

Thực ra, phương pháp này đã được nhiều nước khai thác dầu mỏ trên thế giới ứng dụng, điều khác nhau ở đây là, họ chỉ thực hiện ở các vùng mỏ trong tầng trầm tích. Với những đặc điểm địa chất rất phức tạp, trong khi đó lại chưa hề có lý thuyết hay kinh nghiệm thực tế dẫn đường, thế nhưng bằng trí tuệ của mình, đội ngũ những người làm khoa học ở Vietsovpetro đã tìm ra được giải pháp tối ưu cho việc thu hồi dầu bằng phương pháp bơm ép nước để bảo tồn áp suất vỉa ở tầng đá móng. Giải pháp này được coi là một phát minh khoa học phục vụ đắc lực cho ngành Dầu khí Việt Nam và đóng góp vào kho tàng tri thức nhân loại trong quy trình công nghệ khai thác dầu mỏ trên thế giới.

Từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nghĩa tình và hiệu quả

Sẽ còn nhiều cái để nói, nhiều cái để bàn về những ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga với đất nước ta. Trong muôn vàn cái mênh mông vô biên mà học ở trường nào ta cũng gặp, chỉ xin được nói về một điều rất cụ thể, đó là một đơn vị liên doanh giữa hai Nhà nước Việt Nam và Liên Xô (bây giờ Liên bang Nga kế thừa), hiện nay đang hoạt động, hoạt động ổn định và phát triển mạnh mẽ. Trong nhiều công trình trọng điểm của sự hợp tác giữa hai nhà nước, Vietsovpetro là biểu hiện tập trung nhất, mang đầy đủ đặc trưng hữu nghị của những năm cùng nhau xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và hiện nay đang phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam.

Có lẽ tất cả những thành công của mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội… đều phải thông qua cái gốc của sự đào tạo. Trong những năm đầu thập niên 60 Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo và tái đào tạo hàng vạn lượt người, từ công nhân kỹ thuật của các ngành nghề khác nhau, cho tới những bậc đại học và trên đại học, thuộc cả hai lĩnh vực quân sự và kinh tế. Nhiều vị đứng đầu của Đảng và Nhà nước ta đã được đào tạo từ các trường đại học của Liên Xô. Đặc biệt trong ngành Dầu khí, từ những người đang giữ những cương vị trọng trách cho tới đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật ở các đơn vị, hầu hết đều được đào tạo từ cái nôi của đất nước Xôviết mà ra. Suy cho cùng, đó là sự tất yếu của thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga mà chúng ta đã và đang thừa hưởng. Chỉ tính riêng trong XNLD Vietsovpetro ở thời điểm cuối tháng 6/2006, số người được đào tạo ở Liên xô đã có: Công nhân kỹ thuật đang trực tiếp sản xuất là 292 người, cán bộ tốt nghiệp đại học 372 người và 29 người có trình độ trên đại học.

goc re thanh cong tiep theo va het
Khu vực cảng Vietsovpetro

Đây là những hạt nhân, là linh hồn, là nội lực của một đơn vị liên doanh lớn, họ đang sát cánh cùng những người Nga (người Nga ở XNLD Vietsovpetro được hiểu rộng hơn, gồm cả một số người thuộc các dân tộc trong Liên bang Xôviết cũ, họ là những chuyên gia giỏi nên vẫn được giữ lại sau khi nước Nga trở thành đối tác kế thừa) ngày đêm tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc. Tổng giám đốc đầu tiên của liên doanh này là ông Mamedov Đ.G, ông đã về nước sau nhiệm kỳ thứ nhất của Liên doanh. Thời tiền nhiệm của ông còn đang trong giai đoạn tìm kiếm, thăm dò, đây là giai đoạn sóng to gió cả và cam go nhất của XNLD Vietsovpetro. Bây giờ nhìn lại người ta có thể ngậm ngùi pha chút tự hào mà gọi những ngày ấy là cái “thuở hàn vi” được lắm!

Xem lại bảng thống kê quá trình xây dựng và phát triển của Vietsovpetro, ta thấy những con số khô khan cũng nói được nhiều điều đáng để ta trân trọng. Những ngày đầu còn trong giai đoạn “mò kim đáy bể”, người Nga ở đây chiếm tới 80% tổng số của liên doanh. Ngày 6/9/1988, bắt đầu áp dụng công nghệ mới để khai thác dầu thô từ tầng móng ở mỏ Bạch Hổ, nhờ vậy đã tạo tiền đề đưa sản lượng khai thác của những năm tiếp theo tăng vọt cho đến hôm nay. Chính trong thời điểm của năm 1988, số người Nga làm việc tại đây đang ở vào biên độ cực đại với 1.691 người, họ đã cống hiến rất vô tư bằng sức lực và trí tuệ của mình cho công nghiệp Dầu khí Việt Nam, mà kết quả như ta đã thấy. Cũng xin phép được nói thêm điều này, ngày ấy đồng lương của XNLD Vietsovpetro còn khiêm tốn lắm, mọi người làm việc chủ yếu dựa trên tinh thần Quốc tế Cộng sản cao cả mà chế độ Xã hội chủ nghĩa đã trang bị cho họ.

Hiện nay người Việt Nam ở Vietsovpetro đã thay thế người Nga trong hầu hết công việc chính, kể cả quản lý, điều hành và trực tiếp sản xuất. Số người Nga làm việc ở đây chỉ còn 613 người. Tuy nhiên, trong số họ vẫn có nhiều người đảm nhận những phần việc quan trọng. Một tấm gương điển hình cho tình hữu nghị rất cao cả ở đây mà nhiều người đã biết đó là ông Oseredko I.S. Những kỷ niệm đẹp đẽ về cuộc đời ông với Việt Nam vẫn còn đang được lưu truyền. Là kỹ sư đường ống bể chứa, ông đã làm việc ở XNLD Vietsovpetro với chức danh kỹ sư trưởng, phụ trách thiết kế tuyến đường ống dẫn khí đốt từ mỏ Bạch Hổ vào đất liền. Ông sang Việt Nam từ tháng 12/1967 cùng đoàn chuyên gia của Viện công nghệ đường ống phương Nam, thuộc Bộ Công nghiệp Dầu khí Liên Xô để giúp Bộ Vật tư khảo sát, thiết kế và thi công tuyến đường ống dẫn xăng dầu từ cảng Bến Phao ở Bãi Cháy (Quảng Ninh) về kho Nhân Vực (Hà Tây).

Thời gian này, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc rất dữ dội, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho các chiến trường miền Nam, xăng dầu là loại hàng đặc biệt phục vụ vận tải, Mỹ coi đây là những mục tiêu cần phải tận diệt. Chỉ tính từ năm 1966 đến 1968, các kho xăng dầu của Nhà nước ở Bãi Cháy, Thượng Lý và Bến Thủy đã bị đánh đi đánh lại nhiều lần. Đặc biệt kho H150 của Cục Xăng dầu Quân đội, trong ba năm ấy đã bị đánh liên tiếp 169 trận, với 2.420 quả bom phá, bom sát thương, 1.545 quả đạn tên lửa và rocket, chưa kể đạn pháo của tàu chiến địch từ ngoài biển bắn vào. Trước yêu cầu bức xúc đòi hỏi xăng dầu phục vụ chiến trường, Chính phủ đã giao cho Bộ Vật tư kéo tuyến ống này, để tiếp nhận xăng dầu từ cảng Bến Phao ở Bãi Cháy vào kho Hải Dương rồi về kho Nhân Vực. Tuyến gồm hai đường ống 150 đi song song vượt ngang dưới lòng sông Hồng, sông Thái Bình và 7 con sông nhỏ khác để về kho. Ông đã lăn lộn cùng nhân dân Việt Nam chống trả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, bằng cách đưa nhiên liệu, một loại hàng chiến lược tiếp cận những nơi địch đánh phá ác liệt, để cung cấp cho những đoàn xe tiếp viện hàng ra tiền tuyến. Ông đã vào khảo sát và làm việc ở vùng đất thép Vĩnh Linh bên bờ sông Bến Hải.

Kỷ niệm khó quên nhất của ông đối với Việt Nam là ông đã chứng kiến quân và dân bờ Bắc Bến Hải bắn rơi chiếc máy bay thứ 101 của Mỹ đến oanh tạc vùng này. Năm 1969, ông đã được Chính phủ Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và Huân chương Hữu nghị. Ông tâm sự: “Tôi có dịp ở Việt Nam trong những năm đánh Mỹ và được chứng kiến những cô gái miền Bắc đi cấy lúa nước giữa những ngày giá lạnh, vai đeo súng và quần xắn cao quá gối. Tôi hiểu hết ý nghĩa của việc làm này, nhưng rồi tôi vẫn bị bất ngờ, những bất ngờ liên tiếp ở chính những người phụ nữ Việt Nam bình dị mà ngày nào tôi cũng có dịp gặp gỡ họ. Khi đang cặm cụi cấy lúa, thấy tiếng kẻng báo động có máy bay Mỹ đến bắn phá, họ linh hoạt hẳn lên, chạy đến chiếm lĩnh những gò đất cao, tôi thấy có người trèo lên cả ngọn cây để bắn, họ nhất định không chịu ẩn nấp. Nhưng rồi, có đêm xem văn nghệ ở những địa phương này, tôi lại thấy chính họ lên sân khấu hát dân ca, lúc đó họ hoàn toàn là một con người khác.

Còn bây giờ, trong lúc toàn Đảng toàn dân Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cùng làm việc ở đây tôi lại gặp những phụ nữ Việt Nam như bao nhiêu người trước đây tôi đã gặp. Họ rất đẹp và dịu dàng, làm việc hăng say, hiệu suất lao động của họ không thua kém gì nam giới. Tôi nhận thấy ở người phụ nữ Việt Nam nhiều phẩm chất rất tuyệt vời. Họ vừa là chiến sĩ, vừa là nghệ sĩ và lại lao động cực kỳ giỏi. Tôi đã đi nhiều nước tôi biết, không phải phụ nữ dân tộc nào cũng có những đức tính quý báu như thế. Còn điều này nữa, thật may mắn và hạnh phúc cho tôi, cùng làm việc trong XNLD Vietsovpetro tôi lại được gần ông Cao Xuân Mộc, người đồng chí, đồng nghiệp và đồng sự của tôi. Trong suốt những năm khảo sát, thiết kế và thi công tuyến đường ống dẫn xăng dầu ở miền Bắc, hai người đã cùng nhau làm việc dưới sự oanh kích ác liệt của không quân Mỹ. Từ ngày ấy đến hôm nay, chúng tôi vẫn coi nhau như anh em ruột thịt. Qua những điều đã gặp, tôi nhận thấy các bạn Việt Nam rất kiên cường, đôn hậu và biết quý trọng tình nghĩa”.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Việt Nam, gần đây ông đã về nghỉ hưu ở quê nhà nhưng ông vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với đất nước hình chữ S mà ông yêu như yêu tổ quốc của mình, cụ thể là với những người đã làm việc cùng ông ở XNLD Vietsovpetro.

TSKH Trần Lê Đông – Tổng Giám đốc XNLD Vietsovpetro người đã có nhiều đóng góp lớn cho ngành Dầu khí nói riêng và cho đất nước nói chung. Với cương vị người lãnh đạo cao nhất của XNLD Vietsovpetro xứng đáng với danh hiêu cao quý: Anh hùng Lao động.

Không chỉ là người có những quyết định táo bạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, ông còn là người hết lòng vì tập thể, đã có đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng khối đoàn kết, tạo không khí hòa hợp, dân chủ trong tập thể lao động Việt – Nga thuộc XNLD; thắt chặt truyền thống hữu nghị gắn bó lâu dài giữa hai nước Việt – Nga. Ông tâm sự: “Tôi đã có 4 sự kiện lớn diễn ra trong năm 2008 như: công bố 95 bài báo khoa học ở các tạp chí trong và ngoài nước; bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học và được Liên bang Nga phong học vị Tiến sĩ khoa học; vinh dự hơn nữa là được Đảng, Chính phủ đánh giá cao thành tích đạt được trong thời gian qua và phong tặng “Anh hùng Lao động”; niềm vui về mái ấm gia đình khi nghỉ hưu, về những đứa con thành đạt và trở thành ông nội”. Con trai lớn của ông Trần Lê Phương, nối nghiệp bố, học giỏi, đã trở thành tiến sĩ làm việc tại Vietsovpetro.

Với gương mặt đăm chiêu và mái tóc đã bạc, Tiến sĩ Trần Lê Đông vẫn trăn trở nhiều điều, về những dự định khoa học, những dự án muốn thực hiện, về những miền quê còn nghèo khó, những con người chân lấm tay bùn quanh năm vất vả; những đứa trẻ sinh ra không được may mắn đang vật lộn với sự sống, những đứa trẻ không được cắp sách tới trường… Và ông đã kể cho tôi nghe về dự định của mình và các cộng sự về ngôi trường dạy lý thuyết cho trẻ em khuyết tật. Mong ước đó sắp trở thành hiện thực, khi mà sau tết Kỷ Sửu này, trung tâm phục hồi chức năng cho người lao động sẽ được khánh thành tại Hà Tĩnh – một vùng quê nghèo, luôn phải đối mặt với thiên tai, bão lũ. Đó chỉ là một trong hàng trăm địa chỉ, món quà mà ông và tập thể lao động Vietsovpetro đã, đang và sẽ dành tặng cho nhiều vùng quê đầy gian khó khắp trong nam ngoài bắc, với những con người không lùi bước trước khó khăn.

Phạm Văn Đoan

DMCA.com Protection Status