TS Nguyễn Trí Hiếu: Trao quyền chủ động tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp
Cần phân biệt rõ giữa đầu tư của Nhà nước và vốn của doanh nghiệp
Dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một trong những nội dung đang nhận được nhiều ý kiến đóng góp về việc xác định các nguồn vốn được coi là “vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp”. Trong đó, đáng chú ý là quy định đưa Quỹ đầu tư phát triển và thặng dư vốn cổ phần vào nhóm vốn đầu tư trực tiếp của Nhà nước.
Theo khoản 6 Điều 3 của dự thảo Luật, vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm cả Quỹ đầu tư phát triển, thặng dư vốn cổ phần và các nguồn hình thành từ lợi nhuận để lại. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đang làm mờ ranh giới giữa nguồn vốn Nhà nước đầu tư trực tiếp và vốn do doanh nghiệp tạo lập trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.
![]() |
Trao đổi với PetroTimes về vấn đề này, Chuyên gia tài chính, TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, trên thực tế, các khoản như Quỹ đầu tư phát triển, thặng dư vốn cổ phần hay lợi nhuận sau thuế được để lại là phần tài sản hình thành sau khi doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước, là kết quả của hoạt động nội tại của doanh nghiệp. Đây là tài sản thuộc sở hữu pháp nhân của doanh nghiệp và không thể coi là phần vốn do Nhà nước tiếp tục đầu tư thêm vào. Về thực chất, phần lãi ròng sau thuế là phần lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra, chứ không phải do Nhà nước. Vì thề phần lợi nhuận này không thể xem là tài sản của Nhà nước.
Nếu đưa các khoản vốn này vào nhóm “vốn Nhà nước đầu tư”, không những sai về bản chất kinh tế mà còn vi phạm nguyên tắc sở hữu tài sản trong doanh nghiệp, nơi mà pháp nhân doanh nghiệp được công nhận là chủ thể sở hữu độc lập, ngay cả khi Nhà nước là cổ đông hoặc chủ sở hữu duy nhất.
Theo quy định tại Điều 11 và Điều 17 của dự thảo, việc bổ sung vốn điều lệ từ các nguồn này vẫn phải do Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định. Điều này dẫn đến tình trạng mọi biến động trong vốn điều lệ, kể cả khi không làm thay đổi giá trị thực tế vốn chủ sở hữu, vẫn phải qua cơ chế xin - cho, làm suy giảm tính linh hoạt trong điều hành tài chính doanh nghiệp. Hơn nữa, chỉ có Hội đồng thành viên của doanh nghiệp mới có quyền quyết định về những biến động trong vốn điều lệ, chứ không phải Nhà nước là cổ đông của doanh nghiệp. Nhà nước không trực tiếp quản trị doanh nghiệp, mà phải thông qua Hội đồng thành viên.
Trong khi đó, việc điều chỉnh vốn điều lệ từ các nguồn nội tại như lợi nhuận sau thuế và cổ tức, Quỹ đầu tư phát triển hay thặng dư vốn cổ phần phải là quyết định của Hội đồng thành viên. Nếu không có dòng tiền mới từ phía Nhà nước để bổ sung vốn điều lệ, thì Nhà nước không có thẩm quyền trực tiếp trong việc phân phối nguồn vốn được tạo ra do chính doanh nghiệp. Do vậy, theo TS Nguyễn Trí Hiếu, việc phải xin phép cơ quan chủ sở hữu cho từng lần tăng vốn từ nguồn nội bộ là không cần thiết và không hợp lý, gây ách tắc cho sự chủ động tài chính của doanh nghiệp nhà nước - vốn đang được kỳ vọng sẽ hoạt động theo cơ chế thị trường đầy đủ.
Trao quyền chủ động tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ là một trong những biện pháp quan trọng để các doanh nghiệp nhà nước mở rộng quy mô đầu tư, nâng cao tín nhiệm tài chính, cải thiện khả năng vay vốn và trích lập dự phòng để ứng phó với rủi ro.
Nếu doanh nghiệp không được chủ động sử dụng phần Quỹ đầu tư phát triển hay thặng dư vốn cổ phần để tăng vốn điều lệ thì sẽ dẫn đến nghịch lý: doanh nghiệp có vốn nhưng không thể dùng, có cơ hội đầu tư nhưng không đủ điều kiện pháp lý để triển khai, trong khi thủ tục xin bổ sung vốn kéo dài và mang tính hình thức.
Việc trao quyền cho doanh nghiệp được tự quyết định sử dụng các nguồn vốn nội tại để tăng vốn điều lệ, kết hợp với kiểm tra, giám sát sau khi thực hiện, sẽ là giải pháp cân bằng giữa tự chủ và kiểm soát, phù hợp với tinh thần đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước mà Đảng và Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo.
Từ những phân tích nêu trên, TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, quy định hiện tại trong dự thảo Luật là chưa hợp lý, do vậy dự thảo Luật cần điều chỉnh theo hướng sau: Không coi Quỹ đầu tư phát triển, thặng dư vốn cổ phần và lợi nhuận để lại là vốn đầu tư trực tiếp của Nhà nước; Không yêu cầu phải có ý kiến của cơ quan chủ sở hữu khi doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn chủ sở hữu này để tăng vốn điều lệ; Giao quyền chủ động cho doanh nghiệp quyết định sử dụng các nguồn nội tại để tăng vốn điều lệ, trong khuôn khổ điều lệ và kế hoạch tài chính được thông qua bởi Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị.
“Việc xác định đúng bản chất các loại vốn trong doanh nghiệp nhà nước không chỉ là vấn đề kỹ thuật pháp lý mà còn là nền tảng cho tư duy quản lý hiện đại. Nếu không điều chỉnh, Luật sẽ vô tình tạo ra rào cản pháp lý kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp, trái với mục tiêu cải cách và nâng cao hiệu quả quản trị vốn nhà nước”, TS Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Huy Tùng