6 tháng đầu năm 2025: Cung ứng điện được đảm bảo ổn định
Cuộc họp có sự tham dự của Lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ, bao gồm: Cục Điện lực, Vụ Dầu khí và Than, Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp, Viện Năng lượng, Công ty Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO); cùng đại diện các doanh nghiệp liên quan: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT), Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS), Tổng công ty Đông Bắc; đại diện các địa phương và đơn vị liên quan khác.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì cuộc họp về kế hoạch cung ứng điện 6 tháng cuối năm 2025 và định hướng kế hoạch cung ứng điện năm 2026 |
Báo cáo tại cuộc họp, ông Phạm Nguyên Hùng - Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) cho biết, lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống quốc gia (bao gồm điện mặt trời mái nhà) ước đạt 156,4 tỷ kWh, cao hơn 3,04% so với cùng kỳ năm 2024, đạt 45% so với kế hoạch năm 2025 (347,5 tỷ kWh), nguyên nhân chủ yếu là do nền nhiệt độ toàn quốc thấp hơn so với cùng kỳ, nhu cầu phụ tải không tăng cao như dự báo từ đầu năm. Trong 6 tháng đầu năm, công suất tiêu thụ lớn nhất của hệ thống điện quốc gia đạt 51.672MW ghi nhận vào ngày 2/6/2025, cao hơn 5,7% so với cùng kỳ năm 2024 (tính riêng miền Bắc công suất tiêu thụ lớn nhất tăng 2.632 MW lên 26.495 MW).
Theo Cục trưởng Phạm Nguyên Hùng, việc cung cấp điện trong nửa đầu năm được đánh giá là đạt mục tiêu đề ra, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, kể cả trong các dịp lễ, Tết và sự kiện quan trọng. Thành công này nhờ sự chủ động trong xây dựng kịch bản cung ứng điện theo mùa và được điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến thực tế.
Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) dự báo tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu trong cả năm 2025 ước đạt 331,4 tỷ kWh, tăng trưởng 7,39% so với năm 2024, ước đạt 95,4% so với kế hoạch năm 2025. Tuy nhiên cung cấp điện trong các tháng còn lại của năm 2025 có một số lưu ý, như: Hệ thống điện quốc gia về cơ bản đáp ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của nhân dân trong hầu hết thời gian trong năm. Song để bảo đảm cung cấp điện, hệ thống điện quốc gia vẫn cần dự phòng huy động các nguồn nhiệt điện dầu và các nguồn LNG để đáp ứng nhu cầu phụ tải, đặc biệt vào các khung giờ cao điểm tối khu vực miền Nam khi điện mặt trời không phát.
![]() |
Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Anh Tuấn: Trong 6 tháng cuối năm 2025, EVN đã bám sát kịch bản thực tế về nhu cầu phụ tải để cập nhật lại kế hoạch vận hành hệ thống điện. |
Phát biểu tại cuộc họp ông Nguyễn Anh Tuấn - Tổng giám đốc EVN cho biết, trong 6 tháng đầu năm việc cung ứng điện cho đất nước được đảm bảo tốt. Trong 6 tháng cuối năm 2025, EVN đã bám sát kịch bản thực tế về nhu cầu phụ tải để cập nhật lại kế hoạch vận hành hệ thống điện.
EVN kiến nghị các đơn vị liên quan tiếp tục sử dụng số liệu thủy văn với mức biến cao, theo các bản tin dự báo của Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia để phục vụ công tác tính toán kế hoạch vận hành và phương thức cấp điện trong tháng 7 cũng như các tháng cuối năm. Đồng thời, đề nghị NSMO tiếp tục phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ tối đa cho các đơn vị thành viên của EVN trong việc bố trí cắt điện để thi công các dự án, đặc biệt là các dự án liên quan đến công trình giao thông trọng điểm và các dự án năng lượng quan trọng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tình hình đầu tư xây dựng các dự án nguồn và lưới điện.
Theo đại diện TKV, trong 6 tháng đầu năm, TKV đã cung cấp khoảng 22,37 triệu tấn than cho các nhà máy điện, đạt 52,3% kế hoạch năm. Dự kiến 6 tháng cuối năm, TKV sẽ cung cấp thêm hơn 19 triệu tấn, bảo đảm tổng lượng than cả năm đạt 40 – 41,6 triệu tấn. Tập đoàn khẳng định luôn duy trì lượng tồn kho lớn để sẵn sàng ứng phó các tình huống khẩn cấp.
Trong khi đó, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội Nguyễn Đình Thắng cho biết, tại Hà Nội, phụ tải điện đã liên tục phá kỷ lục, đặc biệt ngày 2/6 ghi nhận mức cao nhất từ trước đến nay với 5.558 MW, tăng 56% so với cùng kỳ 2024, thành phố đang tập trung cao độ để đảm bảo cung ứng điện ổn định. Tuy nhiên, nhiều dự án đầu tư lưới điện vẫn gặp khó khăn do vướng mắc mặt bằng và thủ tục, ảnh hưởng tiến độ đưa vào vận hành.
Tại cuộc họp, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên yêu cầu các đơn vị chức năng tiếp tục rà soát, cập nhật kế hoạch vận hành và chủ động ứng phó với các tình huống bất thường của thời tiết, thị trường nhiên liệu và nhu cầu phụ tải. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu xây dựng kế hoạch cung ứng điện năm 2026 phải sát thực tế, gắn với đẩy nhanh tiến độ các dự án nguồn và lưới, nhất là các dự án chiến lược theo Quy hoạch điện VIII.
Kế hoạch cung ứng điện cho năm 2026: Theo Cục Điện lực (Bộ Công Thương), với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, phấn đấu tăng từ 8% năm 2025, mức tăng trưởng này được đặt ra cao hơn nữa từ năm 2026 trở đi nên nhu cầu sử dụng điện của các doanh nghiệp, người dân và cả nền kinh tế sẽ rất lớn. Do đó, cần phải có sự chuẩn bị sẵn sàng trong việc cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Ngoài ra, để bảo đảm cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2026-2030 và khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2031-2050, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu phấn đấu điện thương phẩm năm 2030 đạt khoảng 500,4-557,8 tỷ kWh, định hướng năm 2050 đạt khoảng 1.237,7-1.375,1 tỷ kWh; công suất cực đại năm 2030 sẽ khoảng 89.655-99.934 MW và năm 2050 đạt khoảng 205.732-228.570 MW. Do đó, cần xây dựng các kịch bản tăng trưởng nhu cầu điện trong năm 2026 để có phương án ứng phó phù hợp, cụ thể: Kịch bản cơ sở tăng trưởng 10-12%, tương ứng với kịch bản tăng trưởng GDP khoảng 6,5-7% và điều kiện thời tiết bình thường. Kịch bản cao, tăng trưởng 13-14%, tương ứng với kịch bản tăng trưởng GDP cao hơn 7% và các đợt nắng nóng kéo dài. Kịch bản cực đoan, tăng trưởng trên 15%, tương ứng với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đột phá và các hiện tượng thời tiết cực đoan trên diện rộng. |
Huy Tùng