Đề xuất lập Quỹ chuyển dịch năng lượng quốc gia, tạo điểm tựa cho chuỗi cung ứng điện sạch
![]() |
Diễn đàn “Nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu” |
Cơ hội để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng năng lượng
TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết, nếu tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 6% thì tốc độ phát triển năng lượng cần đạt khoảng 8 - 9%; trong trường hợp GDP tăng 8%, nhu cầu năng lượng phải tăng tương ứng khoảng 10 - 11%. Tỷ lệ này cần được duy trì ổn định trong những năm tới nhằm bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế.
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ nhất châu Á và dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước mở rộng vị thế cạnh tranh trong chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.
![]() |
TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương): Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ nhất châu Á và dẫn đầu khu vực Đông Nam Á. |
TS. Ngô Đức Lâm chỉ ra các cơ hội rõ rệt cho doanh nghiệp. Cụ thể, nhu cầu đầu tư rất lớn cho hệ thống điện để đạt mục tiêu hơn 183.000 MW công suất nguồn điện vào năm 2030, đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống truyền tải điện tương ứng khoảng 200 tỷ USD trong vòng 10 năm - tức trung bình khoảng 20 tỷ USD mỗi năm cho cả nguồn và lưới điện. Với quy mô này, việc xã hội hóa đầu tư là bắt buộc, mở ra cơ hội tham gia cho các tập đoàn lớn như Petrovietnam, TKV và các doanh nghiệp tư nhân, cùng góp sức vào chuỗi cung ứng năng lượng quốc gia.
Một cơ hội quan trọng khác đến từ đặc điểm của năng lượng tái tạo - nguồn năng lượng phân tán, vốn đầu tư không quá lớn, thời gian triển khai nhanh, phù hợp với khả năng tài chính và tổ chức của nhiều doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo cơ hội thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các liên doanh với địa phương dễ dàng tham gia vào chuỗi cung ứng năng lượng ở các khâu như: đầu tư, xây dựng, vận hành, cung cấp thiết bị và dịch vụ kỹ thuật.
Cơ sở pháp lý hiện hành đã xác định rõ chủ trương xã hội hóa ngành năng lượng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển lĩnh vực này.
![]() |
Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn khi tham gia chuỗi cung ứng năng lượng |
Trong hơn một thập kỷ qua, thị trường điện cạnh tranh tại Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, hiện đã chuyển sang giai đoạn bán buôn cạnh tranh. Điều này mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào các khâu như phân phối, mua bán điện năng và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường - mô hình đã được nhiều quốc gia trên thế giới triển khai hiệu quả.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn đang phải đối mặt với một số khó khăn như: hạn chế trong tiếp cận vốn đầu tư và các chính sách hỗ trợ tài chính; tiếp cận đất đai để phát triển dự án năng lượng; ưu đãi thuế và tiếp cận thông tin minh bạch; quy định về hợp đồng mua bán điện (PPA) chưa thực sự minh bạch, công bằng, dẫn đến rủi ro pháp lý cao; những bất cập trong một số luật hiện hành (Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Điện lực); cùng những thách thức về công nghệ và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao...
Giải pháp cho chuỗi cung ứng năng lượng bền vững
Đồng tình với quan điểm của TS. Ngô Đức Lâm, PGS. TS. Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế cho rằng, doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm trong chuỗi cung ứng năng lượng, từ đầu tư, sản xuất đến phân phối và tiêu dùng. Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ, Chính phủ đã giao EVN và Petrovietnam làm chủ đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2.
![]() |
PGS. TS. Ngô Trí Long đề xuất thành lập Quỹ chuyển dịch năng lượng quốc gia để cấp vốn ưu đãi, bảo lãnh và hỗ trợ kỹ thuật |
Tuy nhiên, để doanh nghiệp có thể thực sự phát huy vai trò trung tâm, cần có một hệ thống chính sách tài chính đồng bộ và hiệu quả, nhằm hỗ trợ tiếp cận vốn, thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường năng lượng toàn cầu.
Theo phân tích của PGS.TS. Ngô Trí Long, các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam, đặc biệt là năng lượng tái tạo, đang đối mặt với nhiều khó khăn về tài chính. Nổi bật là tình trạng thiếu vốn dài hạn, trong khi các dự án điện mặt trời, điện gió đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi kéo dài (10 - 15 năm). Chưa kể, lãi suất vay trong nước ở mức cao (9 - 11%/năm), yêu cầu vốn tự có lớn (30 - 40%), trong khi vốn quốc tế khó tiếp cận do thiếu bảo lãnh Chính phủ. Những trở ngại này khiến nhiều dự án rơi vào bế tắc sau khi cơ chế giá FIT kết thúc.
![]() |
Phiên thảo luận thu hút nhiều câu hỏi của các doanh nghiệp, nhà khoa học tham gia diễn đàn |
Thêm vào đó, Việt Nam hiện vẫn thiếu một hệ sinh thái tài chính xanh, dẫn đến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn xanh; thiếu công cụ phòng ngừa rủi ro tài chính như hợp đồng tương lai hay bảo hiểm doanh thu để ứng phó với biến động giá điện - yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền và khả năng trả nợ.
Ngoài ra, chính sách thuế, phí hiện nay vẫn chưa thực sự hấp dẫn. Dù đã có một số ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu thiết bị, nhưng các chính sách này còn thiếu tính đồng bộ, minh bạch; cơ chế khấu hao nhanh còn hạn chế, dẫn đến dòng tiền chậm, gây khó khăn cho hoạt động tái đầu tư của doanh nghiệp.
Từ những khó khăn nêu trên, PGS.TS. Ngô Trí Long đề xuất thành lập Quỹ chuyển dịch năng lượng quốc gia để cấp vốn ưu đãi, bảo lãnh và hỗ trợ kỹ thuật; Hoàn thiện cơ chế tín dụng xanh, ban hành hướng dẫn chi tiết về tiêu chí ESG, ưu đãi lãi suất và bảo lãnh tín dụng; Xây dựng chính sách khấu hao nhanh, miễn giảm thuế linh hoạt và ổn định pháp lý trong cơ chế giá điện; Phát triển các công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro và khuyến khích hợp tác công - tư (PPP) minh bạch, hiệu quả. Những giải pháp này không chỉ giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về tài chính, mà còn thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch năng lượng xanh tại Việt Nam.
![]() |
Ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực TKV: cần sớm hoàn thiện khung pháp lý; thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh; xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý và hỗ trợ chuyển dịch công bằng trong ngành năng lượng. |
Đóng góp ý kiến về cơ chế chính sách đảm bảo phát triển năng lượng bền vững, ông Trần Văn Giang, Trưởng ban Điện lực TKV cho rằng, đây là xu thế tất yếu và cũng là cơ hội lớn để Việt Nam chuyển mình thành một quốc gia xanh, hiện đại và có trách nhiệm với toàn cầu.
Để đạt được điều đó, ông Giang kiến nghị cần sớm hoàn thiện khung pháp lý; thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh; xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý và hỗ trợ chuyển dịch công bằng trong ngành năng lượng. Bên cạnh đó, cần ban hành khung giá riêng cho từng loại năng lượng tái tạo; triển khai các chính sách tín dụng xanh; cơ chế bảo lãnh đầu tư; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh do Nhà nước đầu tư; thúc đẩy các dự án giảm dần công suất than không có CCS đến năm 2030. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực từ các tổ chức tài chính xanh, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Phương Thảo