Hoạt động thăm dò dầu khí ở miền Nam trước năm 1975

05:55 | 01/05/2012

1,841 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
Theo các tài liệu lưu trữ, trong thời kỳ 1954 đến 1961 đã không có bất kỳ hoạt động khảo sát địa chất dầu khí nào được tiến hành ở miền Nam Việt Nam. Năm 1967, với hy vọng có dầu khí ở thềm lục địa do khảo sát địa vật lý mang lại, Nha Tài nguyên thiên nhiên thuộc Bộ Kinh tế, chính quyền Việt Nam Cộng hòa được giao nhiệm vụ soạn thảo Luật Dầu hỏa, chủ yếu dựa theo kinh nghiệm của Iran.

Ngày 1/12/1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Đạo luật Dầu hỏa số 011/70 ấn định việc tìm kiếm, khai thác dầu mỏ cùng điều kiện thuế khóa và hối đoán liên quan. Báo Năng lượng Mới xin giới thiệu tóm lược về hoạt động thăm dò dầu khí ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Nghiên cứu địa chất – địa vật lý

Năm 1966, theo đề nghị của Ủy ban Kinh tế châu Á của Liên Hiệp Quốc (ECAFE), các nước trong khu vực thành lập Ủy ban Điều phối chương trình điều tra khoáng sản ngoài khơi châu Á (CCOP) (tháng 10-2001 đổi tên là Ủy ban Điều phối các chương trình khoa học địa chất ở Đông và Đông Nam châu Á) nhằm hỗ trợ các nước trong khu vực triển khai thăm dò và tìm kiếm tài nguyên khoáng sản ở ngoài khơi.

Năm 1967, Cơ quan Hải dương học Mỹ tiến hành khảo sát toàn bộ thềm lục địa Nam Việt Nam bằng từ hàng không (tỉ lệ 1/250.000, tiết diện 10 gamma). Tiếp theo, năm 1967-1968 Công ty Alping Geophysical Corporation cũng triển khai nghiên cứu ở vùng này.

Hoạt động thăm dò, khảo sát của Naval Oceanographic Office ngày nay. Trước đó, từ năm 1964, đơn vị này đã tiến hành khảo sát địa chấn ở Biển Đông và vịnh Thái Lan (ảnh Victor Cornin)

Năm 1968, Không quân Hoa Kỳ đã tiến hành đo từ hàng không phần phía nam của Việt Nam Cộng hòa, chủ yếu là vùng Đồng bằng sông Cửu Long và phần biển nông ven bờ. Cũng trong năm này, nhiều công ty của Anh tiến hành thăm dò địa chấn sơ bộ ở Biển Đông và vịnh Thái Lan. Kết quả phát hiện một tầng trầm tích dày khoảng 3-4km có cấu trúc cấu – kiến tạo khá thuận lợi cho việc chứa dầu.

Năm 1969, Naval Oceanographic Office tiến hành khảo sát địa chấn ở Biển Đông và vịnh Thái Lan với mạng lưới tuyến có chiều dài hơn 16.000km. Công ty Ray Geophysical “Mandrel” đã tiến hành đo địa vật lý ở vùng thềm lục địa miền Nam và vùng phía nam Biển Đông với tổng số vào khoảng 3.482km tuyến.

Kết quả các khảo sát này được đăng trên tạp chí của CCOP, đã hấp dẫn các công ty dầu quốc tế quan tâm đến tiềm năng dầu khí ở thềm lục địa Nam Việt Nam. Một số nước trong vùng Đông Nam Á như Brunei, Malaysia,

Indonesia tiếp cận vùng Biển Đông đối diện với Việt Nam, đã phát hiện và khai thác dầu từ lâu. Do vậy, một nhóm công ty dầu quốc tế đã hợp tác thuê Công ty Ray Geophysical “Mandrel” thực hiện chương trình khảo sát địa chấn, từ và trọng lực tương đối chi tiết hơn trên thềm lục địa Việt Nam. Khoảng 8.400km tuyến địa vật lý đã được khảo sát trong 2 năm 1969 và 1970 theo mạng lưới 30km x 40km.

Đầu năm 1970, Công ty Mandrel đã tiến hành đo đợt hai ở phía nam Biển Đông và dọc theo bờ biển miền Nam với khối lượng 8.639km tuyến địa vật lý, bảo đảm mạng lưới tuyến 30km x 50km kết hợp giữa các phương pháp địa chấn, trọng lực và từ. Tổng khối lượng nghiên cứu địa vật lý thực là 9.935km tuyến.

Các tuyến địa vật lý khu vực của Công ty Mandrel cũng như các công ty khác đã cho phép lập các sơ đồ đẳng thời tỉ lệ 1/500.000, cho thấy các tầng phản xạ, chiều dày tối thiểu của lớp trầm tích nơi này có thể hơn 2km. Qua đó có thể xác định được một số đơn vị cấu trúc như đới nâng Khorat, đới nâng Côn Sơn, 3 bồn trầm tích: Sài Gòn – Brunei (sau là bể Nam Côn Sơn), Mekong (sau là bể Cửu Long) và vịnh Thái Lan (sau là bể Malay – Thổ Chu) đều có triển vọng chứa dầu rất cao.

Chuẩn bị gọi thầu

Vào thập niên 60 của thế kỷ XX, dầu khí thế giới đã có những chuyển biến quan trọng. Năm 1960, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) được thành lập. Một số nước trong OPEC đã bắt đầu áp dụng một vài kiểu hợp đồng khác với đặc nhượng: hợp đồng phân chia sản phẩm – PSC (Iran, Indonesia), hợp đồng dịch vụ (Iran, Venezuela) và hợp đồng đồng điều hành – JOC (Algerie, 1969). Tại các hợp đồng phân chia sản phẩm và dịch vụ như ở Iran, Indonesia và Venezuela, công ty dầu trở thành nhà thầu chịu trách nhiệm sản xuất và được chia tỉ lệ dầu sản xuất 40/60, 25/75 v.v… với nước chủ quyền hoặc được nước chủ quyền trả phí dịch vụ bằng dầu. Ở Venezuela, hợp đồng dịch vụ được Công ty Dầu khí Venezuela (CVP) áp dụng kể từ năm 1968. Ở Iran, năm 1966, Công ty Dầu của Pháp là ERAP nhận làm dịch vụ tìm và sản xuất dầu cho Công ty Dầu quốc gia của Iran (NIOC) để nhận tiền công bằng số dầu do hai bên thỏa thuận. Thực ra, sau một thời gian dài áp dụng hợp đồng đặc nhượng, các nước này đã tích lũy được kinh nghiệm và đủ mạnh về kỹ thuật và tài chính, nên đã thành lập Công ty Dầu khí quốc gia Pertamina ở Indonesia, NIOC ở Iran, CVP ở Venezuela v.v… Đặc biệt, Mexico là nước phản ứng mạnh nhất và tiến bộ nhất bằng việc quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ với sự thành lập Công ty Dầu quốc gia PEMEX. Nói chung, qua các hợp đồng này, chủ quyền mỏ dầu thuộc về nước có dầu chứ không còn thuộc về công ty dầu như trong hợp đồng đặc nhượng.

Cuối năm 1970, Công ty Conoco (Mỹ) tiếp xúc với Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa để tìm hiểu về hợp đồng đặc nhượng. Hai kỹ sư Võ Anh Tuấn (Nha Tài nguyên thiên nhiên) và Trần Văn Khởi (lúc bấy giờ là Trưởng phòng Đầu tư, Bộ Kinh tế) được giao nhiệm vụ làm việc với Conoco để tìm hiểu về công nghiệp dầu khí. Conoco đề xuất nên cấp những lô đặc nhượng lớn để việc khai thác được tối ưu, không nên quan hệ với các công ty khổng lồ như Shell và Esso vì các công ty này có thể chỉ giữ chỗ vì đang bận rộn với những mỏ dầu ở những nơi khác. Conoco chỉ mong muốn được thương lượng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa để xin cấp một lô lớn ít nhất là 10.000km2, mà không cần phải qua đấu thầu. Sau này, Conoco đã không dự thầu.

Ngay sau khi thành lập Tổng cuộc Dầu hỏa và Khoáng sản, Văn phòng Tổng cuộc đã mời các chuyên gia luật và kỹ thuật của Iran giúp soạn thảo bản hợp đồng đặc nhượng mẫu và các văn kiện và gọi thầu, sau đó mời một luật gia người Anh chuyên ngành dầu mỏ để tham khảo thêm ý kiến. Đạo luật Dầu hỏa không quy định phải có đấu thầu. Nhưng các chuyên gia tư vấn góp ý là nên tổ chức những cuộc gọi thầu rộng rãi, không nên thương lượng song phương. Các văn kiện gọi thầu gồm thông báo ý định tiến hành tìm kiếm và khai thác dầu ở thềm lục địa, thư mời, bản “vấn đề lục” và hợp đồng mẫu. Trong “đề cung” (offer) dự thầu, các công ty phải nêu ra năng lực, kế hoạch, kinh nghiệm, khả năng kỹ thuật, khả năng tài chính cho việc tìm dầu và ý định khác của họ như việc đào tạo công nhân viên Việt Nam trong ngành công nghiệp này.

Sau này, khi kết quả đấu thầu được công bố vào tháng 7/1973, Văn phòng tiến hành in hợp đồng đặc nhượng chính thức để chuẩn bị việc ký kết với các công ty dầu vào tháng 8/1973. Việc in ấn hợp đồng được giao cho nhà in SAIGON, song Văn phòng lại phải hằng ngày có mặt tại nhà in trên đường Trần Quốc Toản hiện nay, để theo dõi, đôn đốc, sửa lỗi morate, kiểm tra số trang trước khi đóng tập. Trong đợt 1 cấp quyền đặc nhượng, 32 bản hợp đồng chính (16 bản tiếng Anh và 16 bản tiếng Việt) cho 8 lô trúng thầu được đóng bìa da với 4 màu khác nhau cho bốn công ty trúng thầu: xanh nhạt (Mobil), xanh biển (Sunningdale), đỏ (Esso) và nâu (Pecten). Các bản chính này được dùng để ký kết và mỗi bên giữ 2 bản. Một số bản phụ với bìa giấy trắng dày có chữ theo 4 màu nói trên được in thêm để sử dụng khi cần và để lưu trữ.

Ranh giới thềm lục địa – những tranh chấp

Sau khi cùng với luật sư Vương Văn Bắc (Ủy viên Ủy ban Quốc gia Dầu hỏa) và Giám đốc Trần Văn Khởi dự Hội thảo về pháp luật dầu hỏa do ECAFE tổ chức ở Bangkok năm 1971, Nguyễn Văn Vĩnh được Văn phòng giao nhiệm vụ nghiên cứu tập tài liệu ECAFE này để vẽ bản đồ ranh giới tạm thời thềm lục địa miền Nam chủ yếu ở phía đông trong khu vực từ Phan Thiết ra đến khu vực biển có độ sâu 200m và từ kinh tuyến 1100 xuống phía nam và vòng qua vịnh Thái Lan. Miền Trung có thềm lục địa hẹp dự kiến sẽ được khảo sát và phân lô sau này. Đường cơ sở dùng để xây dựng ranh giới thềm lục địa vào thời điểm đó là đường chính giữa tính từ đất liền hoặc hải đảo của mỗi nước trong vùng Biển Đông. Các đảo chính được sử dụng làm đường cơ sở là Phú Quý, Côn Sơn, Hòn Khoai, Thổ Chu, Pirates và Phú Quốc.

Tổng thống Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng trưa ngày 30-4-1975 (ảnh tư liệu)

Chính sự bất đồng quan điểm về hải đảo được chấp nhận hay không giữa các nước đã tạo ra 2 vùng tranh chấp giữa Việt Nam với Indonesia, Malaysia. Tại thời điểm này, Indonesia và Malaysia đã ấn định đường ranh giới thềm lục địa ở Biển Đông rồi, còn ở phía tây, Thái Lan và Campuchia chưa chính thức công bố ranh giới.

Ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia, đã có những phần lấn vào nhau tạo ra một vùng tranh chấp rộng nhất, khoảng 25.000km2. Đường chính giữa của Việt Nam là đường cách đều giữa đảo Côn Sơn (chỉ cách bờ biển khoảng 70km) và bờ biển Kalimantan. Indonesia chọn đường chính giữa của đảo Natuna (cách bờ biển của họ 150km) và bờ biển Việt Nam. Không bên nào chấp nhận đảo của đối phương làm đường cơ sở.

Giữa Việt Nam và Malaysia, vùng tranh chấp rộng khoảng 15.000km2 nhưng không quá căng thẳng về đường cơ sở vì những hòn đảo phía tây Malaysia như Trengganu tương đối khá gần bờ biển của họ.

Năm 1972, Việt Nam và Campuchia đã có một cuộc họp sơ bộ về thềm lục địa giữa hai cơ quan dầu mỏ tại Phnôm Pênh. Campuchia không đồng ý đường ranh giới của Việt Nam lấy đảo Phú Quốc và một số đảo nhỏ làm đường cơ sở. Nguyễn Văn Vĩnh đã thuyết trình về đường ranh giới này với phía Campuchia. Cuối cùng hai bên đồng ý không đưa ra giải pháp nào mà chỉ nhằm mục đích tìm hiểu quan điểm của nhau trước khi tiến đến một phiên họp cấp cao hơn. Đột nhiên vào tháng 8/1974, dù chưa chính thức công bố đường ranh giới, chính quyền

Campuchia vẫn cho phép tổ hợp Elf – Esso mang tàu khoan dầu Glomar IV vào khoan bên trong ranh giới thềm lục địa Việt Nam về phía tây nam đảo Phú Quốc, Việt Nam Cộng hòa đã phản kháng và yêu cầu chính quyền

Campuchia cho ngừng ngay hoạt động khoan ở bên trong ranh giới thềm lục địa Việt Nam đã công bố. Vào giữa tháng 9/1974, tàu Glomar IV đã nhổ neo rời khỏi vị trí khoan.

Ông Nguyễn Văn Vĩnh nguyên là Giám đốc Cuộc Dầu hỏa của Tổng cuộc Dầu hỏa và Khoáng sản kể lại: "Cả sáu người của Văn phòng cùng nhau chia sẻ mọi công việc cần phải làm, dịch bản hợp đồng đặc nhượng gốc tiếng Anh sang tiếng Việt.

Để kịp trình Ủy ban Quốc gia Dầu hỏa cứu xét cho việc chuẩn bị đấu thầu, cả nhóm cùng nhau thức đêm hôm, nhất là trong giai đoạn thực hiện in roneo 2 bản hợp đồng đặc nhượng mẫu tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài cái máy roneo và giấy được Bộ Kinh tế cấp, những vật tư văn phòng khác như cái đục lỗ, kẹp Acco và những thứ lặt vặt khác, Văn phòng phải đi lùng mua ở chợ trời nơi bán hàng phế thải Mỹ.

Bà Trước đánh máy, chúng tôi chữa lỗi từng trang stencil đến mờ mắt trong ánh sáng yếu ớt của văn phòng vào ban đêm, quay roneo trên giấy trắng cỡ 21cm x 33cm, in bìa, đục lỗ rồi kẹp đóng thành tập dày khoảng 1cm. Các hợp đồng đặc nhượng mẫu này cùng với các văn kiện khác sẽ được trao cho các công ty tham khảo trước khi dự thầu. Toàn bộ các văn bản này đã được Văn phòng hoàn tất trong vòng 6 tháng và đã được Ủy ban Quốc gia Dầu hỏa chấp nhận”.

(Theo Lịch sử Dầu khí)

DMCA.com Protection Status