Thực tiễn, kinh nghiệm tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của CĐS và ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình này trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội to lớn, CĐS cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Trong môi trường số đầy biến động, với sự lan tỏa nhanh chóng của thông tin đa chiều, phức tạp, việc bảo vệ và củng cố nền tảng tư tưởng càng trở nên cấp thiết và đòi hỏi những giải pháp đồng bộ, sáng tạo trong quản lý nhà nước về CĐS.
1. Đặt vấn đề
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay được đặt trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Khi CĐS diễn ra mạnh mẽ không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới thì việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên môi trường số cũng đặt ra những yêu cầu mới khi mà các thế lực thù địch, phản động coi đây như một công cụ để tập trung chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.
Nhận dạng các kiểu chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta của các thế lực phản động, có thể thấy nổi lên một số thủ đoạn:
Một là, chúng tập trung thiết kế, xây dựng các website, blog, facebook, fanpage giả mạo các cá nhân, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có uy tín với thủ đoạn nham hiểm là xen lẫn giữa việc đưa lại các thông tin chính thống với việc “cài cắm” những thông tin xuyên tạc, gây nhiễu, gây hiểu lầm, thậm chí là đánh tráo khái niệm.
Hai là, chúng tập trung đưa thông tin ở Việt Nam có “nhóm này, phe kia”, “tranh chấp quyền lực” dẫn đến việc “đấu đá nội bộ” hòng tạo ra sự mất đoàn kết, phân tán tư tưởng.
Ba là, một số tổ chức phản động còn lợi dụng mạng xã hội, internet để hướng dẫn biểu tình, khủng bố, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền.
Bốn là, xây dựng các chương trình truyền thông kêu gọi xoá bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, kêu gọi tự do ngôn luận, tự do báo chí truyền thông tạo sự nhiễu loạn tư tưởng; từ đó dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội, suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó, còn có sự liên kết, phối hợp giữa các tổ chức phản động lên các kịch bản theo kiểu “kẻ tung, người hứng” để làm méo mó hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Rõ ràng là các thế lực thù địch hết sức tận dụng khoa học công nghệ để chống phá với âm mưu thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc. Do đó, muốn ứng phó có hiệu quả, cần thống nhất trong nhận thức về sự cần thiết phải nâng cao vai trò của chuyển đổi số trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay để tạo quyết tâm chính trị cao đối với vấn đề này. Cần xác định việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ then chốt trong kiến tạo nền móng chuyển đổi số.
Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” xác định, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân. Nghị quyết cũng xác định rõ, phải đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền chính trị; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn; tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội...
2. Nội dung nghiên cứu
Thời gian qua thực tiễn cho thấy, một số nền tảng kết nối số phục vụ thông tin - tuyên truyền giữa cấp ủy, chính quyền và người dân chưa phát huy được vai trò và vận hành hiệu quả; chưa có sự phối hợp, liên thông, kết nối cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan, ban ngành. Nội dung và hình thức thông tin, tuyên truyền, cổ động, giáo dục, định hướng dư luận xã hội ở một số nơi còn đơn điệu, phương thức thể hiện cũ kỹ, chưa bắt kịp xu hướng sản xuất nội dung số, truyền thông đa phương tiện - những lợi thế mà chuyển đổi số đem lại.
Có thể nói, chuyển đổi số giúp sự lãnh đạo của Ðảng và công tác điều hành của Chính phủ phát huy hiệu lực, hiệu quả tích cực, nâng cao tính minh bạch, tăng cường liên kết chặt chẽ hơn, hạn chế tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và kiến tạo sự phát triển lành mạnh cho xã hội. Chuyển đổi số giúp nâng cao khả năng tuyên truyền và phổ biến các quan điểm, tư tưởng của Đảng và thúc đẩy công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thế hệ trẻ.
Chuyển đổi số đã được xác định là một trong những đột phá chiến lược mà Trung ương thống nhất đưa vào văn kiện Đại hội XIV của Đảng.
Chuyển đổi số mang lại những biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, và không nằm ngoài vòng xoáy đó, nền tảng tư tưởng của Đảng cũng chịu những tác động đa chiều.
2.1 Cơ hội để lan tỏa sâu rộng và hiệu quả nền tảng tư tưởng
Tiếp cận đa dạng các kênh thông tin. Môi trường số cung cấp vô số kênh thông tin khác nhau như mạng xã hội, báo điện tử, trang thông tin điện tử, ứng dụng di động,... tạo điều kiện thuận lợi để truyền tải nội dung về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đa dạng, sinh động và hấp dẫn đến nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Tương tác và đối thoại trực tiếp. Các nền tảng số cho phép tương tác hai chiều giữa người truyền tải và người tiếp nhận thông tin, tạo cơ hội để giải đáp thắc mắc, làm rõ các vấn đề lý luận, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách kịp thời và hiệu quả.
Cá nhân hóa nội dung. Công nghệ số cho phép phân tích dữ liệu người dùng để cung cấp nội dung phù hợp với sở thích, trình độ nhận thức của từng cá nhân, từ đó nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị.
Tiết kiệm chi phí và thời gian. So với các phương thức truyền thống, việc ứng dụng công nghệ số trong tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị giúp tiết kiệm đáng kể chi phí in ấn, vận chuyển, tổ chức hội nghị, đồng thời rút ngắn thời gian truyền tải thông tin.
2.2 Thách thức đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng
Thứ nhất, sự lan tràn của thông tin sai lệch, xuyên tạc. Môi trường số là mảnh đất màu mỡ cho sự phát tán nhanh chóng của tin giả, thông tin sai lệch, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí bóp méo lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, gây hoang mang dư luận, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Thứ hai, tấn công mạng và lộ lọt thông tin nhạy cảm. Các thế lực thù địch có thể lợi dụng không gian mạng để tấn công vào hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, đánh cắp thông tin nhạy cảm, gây rối loạn, phá hoại, thậm chí tác động vào nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ ba, ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai độc hại. Sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ trong môi trường số, nếu không được định hướng và quản lý chặt chẽ, có thể dẫn đến việc du nhập những giá trị văn hóa ngoại lai độc hại, đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm xói mòn bản sắc văn hóa và hệ giá trị cốt lõi của xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, khó kiểm soát nội dung và nguồn gốc thông tin. Tính ẩn danh, xuyên biên giới của không gian mạng gây khó khăn trong việc kiểm soát nội dung thông tin, xác định nguồn gốc phát tán thông tin xấu độc, từ đó làm giảm hiệu quả của các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn.
Thứ năm, sự phân cực và chia rẽ trong dư luận xã hội. Các thuật toán của mạng xã hội có xu hướng tạo ra các “bong bóng” thông tin, nơi người dùng chỉ tiếp xúc với những quan điểm tương đồng, dẫn đến sự phân cực và chia rẽ trong dư luận xã hội, làm suy yếu sự đồng thuận và đoàn kết trong Đảng và nhân dân.
Thứ sáu, nguy cơ “ảo hóa” đời sống chính trị - tư tưởng. Việc lạm dụng không gian mạng có thể dẫn đến tình trạng “ảo hóa” đời sống chính trị - tư tưởng, khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân xa rời thực tiễn, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội thực tế, dễ bị lôi kéo bởi những thông tin ảo, những trào lưu lệch lạc trên mạng.
3. Sự cần thiết bảo vệ nền tảng tư tưởng trong quản lý nhà nước về chuyển đổi số
Trong thời đại bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, việc cung cấp đầy đủ, kịp thời cho cán bộ, đảng viên những thông tin chính thống có ý nghĩa rất quan trọng. Đặc biệt, việc đưa vào sử dụng phần mềm “Sổ tay Đảng viên điện tử” là bước đột phá, thay đổi phương thức quản lý đảng viên cũng như nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhiều tài khoản đã tham gia tích cực vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, như nhóm “Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” với 91.468 thành viên; trang “Chống luận điệu xuyên tạc” có 44.000 người thích, 48.000 người theo dõi; trang “Tiếng nói thế hệ trẻ” có 14.392 người thích, 15.224 người theo dõi; trang “Thông tin chống phản động” có 149.000 người thích, 190.000 người theo dõi; trang “Chống phản động” có 189.349 người thích, 229.136 người theo dõi.
Với những tác động phức tạp của CĐS, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quản lý nhà nước về CĐS không chỉ là nhiệm vụ quan trọng mà còn là yêu cầu sống còn, mang tính chiến lược, bởi:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng. Nền tảng tư tưởng là cơ sở lý luận vững chắc cho sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng trong môi trường số giúp củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo định hướng đúng đắn cho quá trình CĐS, phục vụ mục tiêu xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Hai là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền tảng tư tưởng của Đảng là kim chỉ nam cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng trong CĐS giúp ngăn chặn những tư tưởng lệch lạc, đi ngược lại mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quá trình CĐS không đi chệch hướng.
Ba là, củng cố niềm tin của nhân dân. Khi nền tảng tư tưởng của Đảng được giữ vững và lan tỏa sâu rộng trong môi trường số, nhân dân sẽ có cơ sở để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, từ đó tạo sự đồng thuận và sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công công cuộc CĐS.
Bốn là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng trong không gian mạng góp phần ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ an ninh thông tin, an ninh mạng, ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh CĐS diễn ra mạnh mẽ.
Năm là, xây dựng văn hóa số lành mạnh. Nhất là văn hoá số của cán bộ, công chức, đảng viên, nghệ sĩ, nghệ nhân, người nổi tiếng... Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng gắn liền với việc xây dựng một môi trường văn hóa số lành mạnh, định hướng các giá trị tốt đẹp, truyền thống văn hóa của dân tộc, góp phần hình thành những công dân số có trách nhiệm, có văn hóa.
4. Một số phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng trong quản lý nhà nước về chuyển đổi số hiện nay
Để tăng cường và phát huy vai trò của chuyển đổi số trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thực tiễn cho thấy cần hết sức quan tâm tạo ra các nội dung truyền thông số chất lượng, sản phẩm thông tin - tuyên truyền mới mẻ, sáng tạo, đa dạng hóa hình thức biểu đạt mới phù hợp với nhiều đối tượng công chúng hiện đại như video, podcast, infographics...
Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh CĐS, Đảng và Nhà nước cần xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống chính trị, tuân thủ sự chỉ đạo, lãnh đạo toàn diện, liên tục của Đảng và quản lý nhà nước cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trên các lĩnh vực khác nhau.
4.1 Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục. Tăng cường tuyên truyền, quán triệt sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CĐS trên các nền tảng số. Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền theo hướng sinh động, hấp dẫn, phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Hai là, nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng. Làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về những nguy cơ, thách thức đối với nền tảng tư tưởng trong môi trường số, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc tham gia bảo vệ và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Ba là, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần chủ động, tích cực thông tin chính xác, kịp thời về tình hình CĐS, về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tăng cường đấu tranh phản bác các thông tin sai lệch, xuyên tạc.
Bốn là, tăng cường giáo dục lý luận chính trị trên môi trường số. Xây dựng các nền tảng, ứng dụng trực tuyến để giảng dạy, học tập lý luận chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp cận tri thức lý luận một cách dễ dàng, mọi lúc, mọi nơi.
4.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý nhà nước về chuyển đổi số
Trước tiên, nhiệm vụ cần thiết là xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến an ninh mạng, an toàn thông tin, quản lý thông tin trên không gian mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân, phòng chống tội phạm công nghệ cao,... tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác quản lý nhà nước về CĐS và bảo vệ nền tảng tư tưởng.
Cùng với đó là nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên không gian mạng. Tăng cường năng lực giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trên không gian mạng, đặc biệt là các hành vi phát tán thông tin độc hại, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương là yêu cầu cấp thiết. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các lực lượng chức năng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng, đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả của các biện pháp.
Bên cạnh đó cũng cần tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ an ninh mạng. Chủ động hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong lĩnh vực an ninh mạng, phòng chống tội phạm công nghệ cao, chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng trong môi trường số.
4.3 Phát triển hạ tầng công nghệ và nâng cao năng lực an ninh mạng
Đầu tư phát triển hạ tầng số hiện đại, an toàn. Xây dựng và nâng cấp hạ tầng mạng lưới, hệ thống thông tin quốc gia đảm bảo an toàn, ổn định, đáp ứng yêu cầu của quá trình CĐS và công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng.
Nâng cao năng lực an ninh mạng và an toàn thông tin. Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, phát triển các giải pháp công nghệ bảo mật, phòng chống tấn công mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân và thông tin quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Xây dựng lực lượng chuyên gia an ninh mạng. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chuyên gia có trình độ cao về an ninh mạng, an toàn thông tin để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng trong môi trường số.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ tiên tiến. Nghiên cứu, ứng dụng AI và các công nghệ tiên tiến khác để phát hiện, phân tích và ngăn chặn kịp thời các thông tin độc hại, các hoạt động chống phá trên không gian mạng.
Tăng cường giáo dục, tuyên truyền sâu rộng về Luật An ninh mạng, người dân có ý thức đấu tranh mạnh mẽ với các hành vi sử dụng không gian mạng tuyên truyền chống phá Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Việt Nam.
4.4 Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng
Một là, định hướng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trên môi trường số. Các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động tham gia vào công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng.
Hai là, khuyến khích sự tham gia của người dân. Tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát, phát hiện và phản ánh các thông tin sai lệch, độc hại trên không gian mạng, góp phần xây dựng một môi trường thông tin lành mạnh.
Ba là, xây dựng cộng đồng mạng văn minh, trách nhiệm. Vận động người dân nâng cao ý thức trách nhiệm khi tham gia vào không gian mạng, tuân thủ các quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, góp phần xây dựng một cộng đồng mạng văn minh, lành mạnh.
Bốn là, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân có uy tín lan tỏa thông tin tích cực. Tạo điều kiện, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân có uy tín trong xã hội, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia vào việc truyền tải thông tin chính thống, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên không gian mạng.
Từ đó các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhanh chóng đi vào thực tiễn cuộc sống một cách tự nhiên, trực quan, sinh động, dễ hiểu, dễ áp dụng, thiết thực với người dân, doanh nghiệp, qua đó tăng hiệu quả thuyết phục và sự tự giác chấp hành của quần chúng. Tạo hiệu ứng tự giác, chủ động đẩy lùi các luận điệu thù địch, phản động, chống phá sự nghiệp phát triển đất nước cũng như sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
4.5 Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
Thứ nhất, cần thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý thông tin trên không gian mạng, về an ninh mạng và an toàn thông tin.
Thứ hai, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi phát tán thông tin sai lệch, độc hại, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên không gian mạng theo đúng quy định của pháp luật.
Công khai thông tin về các vụ việc vi phạm. Công khai thông tin về các vụ việc vi phạm và kết quả xử lý để tăng tính răn đe và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
3. Kết luận
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quản lý nhà nước về CĐS hiện nay là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp đồng bộ của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Việc nhận diện rõ những cơ hội và thách thức, từ đó triển khai các giải pháp toàn diện, hiệu quả trên các lĩnh vực pháp lý, công nghệ, tuyên truyền, giáo dục, quản lý và kiểm tra, giám sát là yếu tố then chốt để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và thực hiện thành công công cuộc CĐS vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Trong bối cảnh CĐS diễn ra ngày càng sâu rộng, việc không ngừng đổi mới tư duy, phương pháp tiếp cận và nâng cao năng lực quản lý nhà nước là yêu cầu cấp thiết để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên số.
Chi bộ Kiểm soát
-
Công tác chuyển đổi số tại PTSC: Tiên phong từ lãnh đạo chủ chốt
-
Chi bộ Trung tâm Kỹ thuật PVEP tổ chức kết nạp Đảng viên mới và sinh hoạt chuyên đề quý III/2025
-
Đại hội Hội Cựu chiến binh PVEP nhiệm kỳ 2025-2030: Tiên phong - Gương mẫu - Nghĩa tình
-
Petrovietnam tăng tốc chuyển đổi số, kiến tạo nền tảng cho phát triển bền vững