Bài toán vùng nguyên liệu cho xăng sinh học E10 trước giờ mở bán toàn quốc

08:05 | 08/12/2025

28 lượt xem
|
(PetroTimes) - Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị triển khai bán xăng sinh học trên toàn quốc từ tháng 6/2026, câu chuyện phát triển nguồn nguyên liệu đang trở thành mối quan tâm lớn. Nếu không có chiến lược vùng nguyên liệu và cơ chế thị trường hợp lý sẽ là thách thức lớn với các nhà máy ethanol.
Bài toán vùng nguyên liệu cho xăng sinh học E10 trước giờ mở bán toàn quốc
Xăng E10 sẽ được mở bán trên toàn quốc từ tháng 6/2026

Nhu cầu ethanol sẽ ngày càng tăng nhanh

Việt Nam đang bước vào một bước ngoặt chiến lược trong lĩnh vực nhiên liệu sinh học khi từ tháng 6/2026 các cửa hàng xăng dầu trên toàn quốc sẽ triển khai đồng loạt kinh doanh xăng sinh học thay cho xăng khoáng. Trong bối cảnh đó, việc phát triển nguồn nguyên liệu và mở rộng công suất sản xuất ethanol trở thành nhân tố quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đề ra.

Theo Hiệp hội Nhiên liệu sinh học Việt Nam, hiện Việt Nam có 6 nhà máy sản xuất ethanol nhiên liệu (E100) với tổng công suất thiết kế khoảng 600.000 m³/năm. Nếu vận hành 100% công suất, lượng này chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu pha chế xăng E10 - tương đương 1,5 triệu m³ ethanol/năm. Thách thức đến từ vùng nguyên liệu chưa ổn định, thị trường chưa mạnh, chi phí cao.

Tuy nhiên, theo Hiệp hội Nhiên liệu sinh học Việt Nam, việc triển khai tiêu thụ xăng sinh học trên toàn quốc sẽ làm nhu cầu ethanol tăng nhanh, đặt ra sức ép lớn cho chuỗi cung ứng trong nước.

Một số nhà máy lớn như Nhà máy Ethanol Dung Quất đang lên kế hoạch khởi động lại để đáp ứng nhu cầu. Hơn nữa, để phân phối E10, các tập đoàn phân phối xăng dầu như Petrolimex, PVOIL và một số doanh nghiệp tư nhân cũng đang chuẩn bị hạ tầng lưu trữ, phối trộn và phân phối.

Theo các chuyên gia, nhiên liệu sinh học không phải là nhiên liệu mới. Nhiều quốc gia đã sử dụng rộng rãi xăng E10 với các chỉ số RON khác nhau (từ RON92 đến RON95) trong nhiều thập kỷ. Việc sử dụng lâu dài ở nhiều quốc gia chứng minh rằng xăng E10 là một loại nhiên liệu an toàn.

Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển sản xuất bioethanol nhờ lợi thế là nước nông nghiệp có nguồn nguyên liệu dồi dào như sắn, ngô và phế phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, để làm được điều đó các nhà máy ethanol cần được hỗ trợ về vốn, công nghệ và quy hoạch vùng nguyên liệu để ổn định và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu.

Phần lớn ethanol trong nước hiện được sản xuất từ ​​sắn, một loại nguyên liệu có trữ lượng hạn chế và hiệu suất thấp, khiến chi phí sản xuất tăng cao, khó cạnh tranh với xăng khoáng.

Bài toán vùng nguyên liệu cho xăng sinh học E10 trước giờ mở bán toàn quốc
Cây sắn hiện nay vùng trồng phân tán, năng suất thấp, điều kiện đất đai hạn chế, nguồn nguyên liệu sẵn trong nước đang thiếu hụt trầm trọng

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam hiện có khoảng gần 600.000 ha sắn, sản lượng đạt hơn 10,5 triệu tấn củ tươi mỗi năm. Tuy nhiên, cây sắn có nhiều vấn đề, như vùng trồng phân tán, năng suất thấp, điều kiện đất đai hạn chế, nguồn nguyên liệu sẵn trong nước đang thiếu hụt trầm trọng, do diện tích trồng sắn lớn, nhưng diện tích có hợp đồng bao tiêu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.

Đề án phát triển ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn 2050 đã đặt mục tiêu nâng cao chất lượng, gia tăng năng suất bình quân/ha và hiệu quả chuỗi giá trị, giảm phát thải, từ đó, đưa ngành sắn Việt Nam chuyển mình từ sản xuất truyền thống sang sản xuất xanh, thông minh và bền vững hơn.

Không thể chỉ trông vào cây sắn

Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn năm 2025 đã được phê duyệt từ năm 2007. Mới đây, trong thông điệp “Chính sách đồng bộ cho xăng sinh học”, Bộ Công Thương cũng khẳng định cần mở rộng và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu, không chỉ phụ thuộc sắn.

Trao đổi với PetroTimes, PGS.TS Chu Tiến Quang, nguyên Trưởng ban Chính sách phát triển nông thôn (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) - chuyên gia chính sách nông nghiệp nhìn nhận, khi bàn về tương lai của ngành nhiên liệu sinh học hôm nay không chỉ trông vào cây sắn như trước đây.

PGS.TS Chu Tiến Quang nhìn nhận, việc lấy cây sắn làm nguyên liệu chính cho ethanol từng được kỳ vọng giúp nông dân có thêm đầu ra, doanh nghiệp có nguồn cung ổn định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cây sắn không phải là lựa chọn tối ưu. Ở Việt Nam, diện tích trồng sắn có xu hướng hẹp dần bởi năng suất giảm, đất bạc màu nhanh, tác động đến môi trường.

Bên cạnh đó, do trồng phân tán và chưa được cơ giới hóa, năng suất sắn của Việt Nam vẫn ở mức thấp, chi phí thu hoạch cao. Người nông dân lại không có động lực trồng khi giá thu mua thấp và thiếu hợp đồng bao tiêu ổn định. Chính sách “xanh” cũng khó áp dụng cho cây này, bởi “đó không phải cây xanh đúng nghĩa, nó không tái hồi dinh dưỡng cho đất mà còn gây xói mòn và suy thoái”.

Bài toán vùng nguyên liệu cho xăng sinh học E10 trước giờ mở bán toàn quốc
PGS.TS Chu Tiến Quang: Cần mở rộng nghiên cứu và quy hoạch sang các loại nguyên liệu khác có tiềm năng cao hơn như ngô, cám gạo, phụ phẩm nông nghiệp hay thậm chí là gạo phẩm cấp thấp

Thay vì giới hạn ở sắn, PGS.TS Chu Tiến Quang đề xuất cần mở rộng nghiên cứu và quy hoạch sang các loại nguyên liệu khác có tiềm năng cao hơn như ngô, cám gạo, phụ phẩm nông nghiệp hay thậm chí là gạo phẩm cấp thấp. Ông Quang cho rằng, nếu tính toán hợp lý, việc tận dụng những nguồn này không chỉ giúp giảm áp lực lên đất đai mà còn tạo giá trị gia tăng cho nông dân trồng lúa, giúp gia tăng giá trị ngành hàng lúa gạo.

“Tại sao ta phải xuất khẩu gạo giá rẻ, trong khi có thể chế biến sang sinh học để thu được giá trị cao hơn? Nếu tận dụng cám hay gạo phẩm cấp thấp làm ethanol, người trồng lúa có thêm thu nhập, nền kinh tế cũng hưởng lợi. Việc chuyển hướng như vậy không đòi hỏi đầu tư lớn vào vùng nguyên liệu mới, mà có thể tận dụng hạ tầng sẵn có trong ngành lúa gạo, một hướng đi mang tính tuần hoàn và bền vững hơn”, ông Quang phân tích.

Cần chuỗi giá trị bền vững nông dân – hợp tác xã - doanh nghiệp

Để phát triển bền vững vùng nguyên liệu, điều quan trọng theo ông Quang là cần có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp chế biến. Theo vị chuyên gia này, quy hoạch vùng nguyên liệu chỉ có ý nghĩa khi đảm bảo được lợi ích kinh tế cho người trồng. Do đó, doanh nghiệp phải bao tiêu và đảm bảo giá thu mua đủ hấp dẫn thì vùng nguyên liệu mới bền vững.

PGS.TS Chu Tiến Quang cũng lưu ý, việc hình thành vùng nguyên liệu mới không hề đơn giản vì liên quan đến lợi ích đất đai, cơ sở hạ tầng và thói quen canh tác. Trong khi đó, tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp hiện có, như cám, rơm rạ, lõi ngô vừa tránh lãng phí, vừa giảm ô nhiễm và thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn. Đây có thể là hướng đi nhanh và ít tốn kém hơn nhiều so với việc quy hoạch vùng trồng mới.

Bài toán vùng nguyên liệu cho xăng sinh học E10 trước giờ mở bán toàn quốc
Nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt Nguyễn Trí Ngọc: Người nông dân phải được đặt vào vị trí chủ thể của quá trình phát triển vùng nguyên liệu

Trao đổi với PetroTimes, ông Nguyễn Trí Ngọc, nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng cho rằng, việc phát triển cây sắn gắn với vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất ethanol đã được triển khai từ nhiều năm trước. Đây là hướng đi đúng, song để đảm bảo tính bền vững, cần phải có chính sách và quy trình kỹ thuật phù hợp, vì cây sắn vừa là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất nhiên liệu sinh học, vừa tiềm ẩn nguy cơ khai thác môi trường quá mức.

Theo ông Ngọc, mục tiêu quan trọng nhất hiện nay là phát triển giống sắn mới có năng suất cao, bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng. Chỉ khi đó, các nhà máy ethanol mới có thể chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước, thay vì phải nhập khẩu. Ông nhấn mạnh, với tiến bộ của công nghệ sinh học, việc cải thiện giống cây trồng hoàn toàn khả thi trong thời gian tới.

Về cơ chế tham gia của người nông dân và hợp tác xã, ông Ngọc cho rằng người nông dân phải được đặt vào vị trí chủ thể của quá trình phát triển vùng nguyên liệu, với điều kiện đảm bảo thu nhập ổn định trên mỗi đơn vị diện tích. Doanh nghiệp có trách nhiệm bao tiêu sản phẩm, hình thành chuỗi giá trị bền vững giữa doanh nghiệp – nông dân – hợp tác xã.

Trước yêu cầu của Bộ Công Thương về việc mở rộng sử dụng xăng sinh học trên toàn quốc, ông Ngọc cho rằng mục tiêu này khả thi nếu Việt Nam phát triển được nguồn nguyên liệu “xanh” ngay từ gốc, vì “nguyên liệu mà không xanh thì không thể có nền kinh tế xanh”.

“Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sẽ tham gia tích cực trong việc hình thành vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất nhiên liệu sinh học, thông qua vai trò liên kết, hướng dẫn và hỗ trợ nông dân thực hiện các đề án này một cách hiệu quả và bền vững”, ông Nguyễn Trí Ngọc khẳng định.

Xăng sinh học E10 là chìa khóa góp phần cải thiện chất lượng không khí đô thị Xăng sinh học E10 là chìa khóa góp phần cải thiện chất lượng không khí đô thị
PGS.TS Phạm Hữu Tuyến: Xăng sinh học E10 - An toàn, tiết kiệm và thân thiện môi trường PGS.TS Phạm Hữu Tuyến: Xăng sinh học E10 - An toàn, tiết kiệm và thân thiện môi trường
Cung ứng và triển khai Ethanol: Từ xu hướng toàn cầu đến thực tiễn trong nước Cung ứng và triển khai Ethanol: Từ xu hướng toàn cầu đến thực tiễn trong nước
Dấu ấn gian hàng BSR tại Triển lãm 80 năm thành tựu đất nước Dấu ấn gian hàng BSR tại Triển lãm 80 năm thành tựu đất nước

Phương Thảo

DMCA.com Protection Status