Dự thảo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo:

Cần "cởi trói" cho phát triển khoa học công nghệ ở doanh nghiệp Nhà nước

07:02 | 04/06/2025

1,094 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
(PetroTimes) - PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng, cần điều chỉnh Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) để phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 68. Nếu đã thúc đẩy đầu tư cho khu vực tư nhân, thì cũng cần bảo đảm sự bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tránh để khu vực này tụt hậu. DNNN cần được tháo gỡ rào cản thể chế, có động lực thị trường đủ mạnh để phát huy vai trò chủ đạo. Đồng thời, Nhà nước phải xây dựng một thị trường khoa học - công nghệ thực sự mạnh, rộng mở và hội nhập, trong đó DNNN giữ vai trò “người chơi chính”.

Trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, KH&CN đang được kỳ vọng trở thành một trong những trụ cột then chốt để Việt Nam nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập. Trao đổi với PetroTimes, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - chuyên gia kinh tế, giảng viên cao cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, để KH&CN thực sự phát huy vai trò là động lực tăng trưởng trong khu vực DNNN, cần phải có sự điều chỉnh mạnh mẽ từ thể chế, đặc biệt là sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ hiện hành sao cho tương xứng với tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh: “Nếu Nghị quyết 68 coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng, thì luật pháp về KH&CN cũng phải phản ánh đầy đủ vai trò chủ đạo của DNNN, một chủ thể quan trọng trong việc dẫn dắt đổi mới, phát triển công nghệ và kiến tạo thị trường KH&CN tại Việt Nam. Hiện nay, vai trò đó chưa được luật hóa và hiện thực hóa một cách tương xứng”.

Những rào cản thể chế “trói chân” doanh nghiệp nhà nước

Theo phân tích của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, dù đã trải qua quá trình cải cách mạnh mẽ, từ khoảng 12.000 doanh nghiệp vào những năm 1990 xuống còn dưới 500 (doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở 11 ngành, lĩnh vực của nền kinh tế) hiện nay, DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực này vào lĩnh vực KH&CN lại chưa tương xứng với kỳ vọng xã hội. “DNNN lẽ ra phải là lực lượng nòng cốt về đổi mới sáng tạo, nhưng thực tế, số lượng bằng sáng chế, giải pháp hữu ích hay sản phẩm công nghệ mới do họ tạo ra rất khiêm tốn, thậm chí còn thua xa cả khu vực tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng phân tích.

Luật Khoa học và Công nghệ cần “cởi trói” thể chế, tạo động lực cho DNNN phát triển

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - chuyên gia kinh tế, giảng viên cao cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Thống kê cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài chiếm đa số trong số các đơn vị đăng ký sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Những mô hình kinh doanh mới, sản phẩm tiên phong hay công nghệ lõi hiện đại, vốn là yếu tố quyết định sức cạnh tranh lại hiếm khi bắt nguồn từ DNNN. Hệ quả là, khi nhắc đến học hỏi, đổi mới, hội nhập, người ta thường hướng sự chú ý đến doanh nghiệp tư nhân hay FDI thay vì DNNN.

“Trong khi KH&CN phải là trụ cột tạo lợi thế cạnh tranh, thì DNNN lại chưa có đầu tư đủ mạnh, chưa phát huy được nội lực, cũng chưa huy động được nguồn lực tinh hoa cho sứ mệnh này”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận xét.

Lý giải nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng có cả yếu tố nội tại của doanh nghiệp và yếu tố thể chế. Về nội tại, nhiều DNNN chưa có tư duy chiến lược về phát triển KH&CN, còn tư tưởng ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong khi đó, cơ chế đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) lại rập khuôn, nặng tính hành chính, thiếu linh hoạt và không phù hợp với đặc thù của đổi mới sáng tạo.

Về phía thể chế, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng đặc biệt nhấn mạnh đến sự bất cập của khung pháp lý hiện hành, trong đó có Luật Khoa học và Công nghệ. Luật chưa tạo được hành lang đủ thông thoáng để DNNN chủ động đầu tư vào KH&CN, chưa có cơ chế tài chính hiệu quả để khuyến khích nghiên cứu dài hạn, chưa có mô hình thu hút và đãi ngộ nhân tài xứng đáng. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư R&D nhưng vướng cơ chế phê duyệt, cấp phát, quyết toán khiến dự án bị trì trệ hoặc không thể triển khai.

“Không có cơ chế thị trường đúng nghĩa cho KH&CN, nên các DNNN vừa không có động lực vừa không có điều kiện để cạnh tranh và sáng tạo. Trong khi đó, phần lớn hoạt động KH&CN vẫn vận hành theo lối xin - cho, nặng hình thức”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận định.

Cần sửa luật để tạo bình đẳng, mở khóa tiềm năng doanh nghiệp nhà nước

Trong bối cảnh Nghị quyết 68 khẳng định vai trò động lực của kinh tế tư nhân, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng càng phải sửa luật để bảo đảm sự bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là trong tiếp cận các nguồn lực cho phát triển KH&CN. “Không thể để DNNN bị tụt hậu so với khu vực tư nhân. Cần một khung pháp lý mới, cởi mở hơn, rõ ràng hơn và tạo động lực mạnh mẽ hơn cho DNNN đổi mới sáng tạo”, ông đề xuất.

Luật Khoa học và Công nghệ cần “cởi trói” thể chế, tạo động lực cho DNNN phát triển
Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, cần tăng mạnh chi tiêu cho KH&CN. Tỷ lệ đầu tư cho R&D hiện chỉ khoảng 0,5% GDP là quá thấp, cần nâng lên 1,5-2% để đủ tạo ra những chuyển biến mang tính đột phá.

Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi cần khắc phục ba vấn đề lớn: Thứ nhất, phải cho phép DNNN được tiếp cận, sử dụng và đầu tư các nguồn lực KH&CN một cách chủ động, linh hoạt hơn. Có thể thông qua các quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước hoặc chính sách ưu đãi tín dụng cho dự án R&D chiến lược.

Thứ hai, luật cần tạo điều kiện để DNNN trở thành “người chơi chính” trong thị trường KH&CN. Họ vừa là nhà sản xuất công nghệ, vừa là người tiêu dùng thông minh, đồng thời là đối tác hội nhập quốc tế về công nghệ.

Thứ ba, cần có cơ chế đặc thù để thu hút nhân tài KH&CN về làm việc trong các tập đoàn nhà nước lớn, nơi có tiềm lực triển khai các dự án nghiên cứu quy mô, có khả năng dẫn dắt toàn ngành.

Đặc biệt, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng, cần tăng mạnh chi tiêu cho KH&CN. “Tỷ lệ đầu tư cho R&D hiện chỉ khoảng 0,5% GDP là quá thấp, cần nâng lên 1,5-2% để đủ tạo ra những chuyển biến mang tính đột phá. Việc đầu tư này phải được thiết kế phù hợp để doanh nghiệp chủ động sử dụng, không bị bó buộc bởi thủ tục hành chính rườm rà”.

Để tận dụng thời cơ từ chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng phát triển bền vững, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng DNNN cần có tầm nhìn chiến lược và cam kết mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực KH&CN. “Cần bám sát hoặc đi đầu trong các ngành mũi nhọn như dầu khí, năng lượng tái tạo, cơ khí chế tạo, công nghiệp bán dẫn, AI, giao thông thông minh... Đây là những lĩnh vực mà DNNN có đủ tiềm lực để bứt phá nếu được trao cơ chế phù hợp”.

Thực tế cho thấy, một vài doanh nghiệp như Viettel hay FPT đã có bước đi mạnh mẽ trong nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm công nghệ. Tuy nhiên, để trở thành xu thế phổ biến, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng cần có sự thay đổi từ gốc, tức là thay đổi luật và chính sách, đặc biệt là sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ.

“Chỉ khi nào có một thị trường KH&CN mạnh, hội nhập và bình đẳng, nơi DNNN không bị trói buộc mà có thể phát huy vai trò dẫn dắt, thì khi đó chúng ta mới kỳ vọng họ trở thành chủ thể chủ đạo thật sự trong phát triển kinh tế tri thức”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận định.

Trong kỷ nguyên của đổi mới sáng tạo, DNNN không thể tiếp tục là những “cỗ xe chậm” bị chi phối bởi tư duy bao cấp và rào cản thể chế. Việc sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà là một bước đi chiến lược để khai phóng tiềm năng của DNNN, kiến tạo một thị trường công nghệ năng động và thúc đẩy phát triển quốc gia. Tư tưởng chủ đạo, như PGS.TS Nguyễn Thường Lạng đề xuất, chính là “cởi trói thể chế, tạo động lực thị trường” để KH&CN trở thành một phần không thể thiếu trong sức mạnh cạnh tranh của DNNN Việt Nam.

Đình Khương

DMCA.com Protection Status